Phù Thiền tổ hiển thực nhi trực chỉ nhất tâm; thánh nhân thích thời nhi thông hồ
vạn biến. Vạn giả nhất chi tán; nhất nãi vạn chí tông. Chí ư hiền trí gián xuất;
quĩ phạm diệt hưng. Tụ kỳ tán dĩ quy tông; bão ư nhất dĩ thống vạn. Lập tượng
tướng nhi thị hữu sở thống; sùng tháp miếu nhi linh hữu sở qui. Kiệt tâm lực dĩ
kinh doanh; xả trân ngoạn nhi bất lận. Cố đạo thiết kim thằng chi giới; thiềm
thi chu võng chi trân. Tuy cùng cực ư trang nghiêm; nhi bất dĩ vi xa xỉ giả. Cái
tại ư cầu nhất chân nhĩ, phi đồ dục diệu tâm mục nhi khoa tráng lệ dã. Tự Phật
giáo dĩ lai, đãi kim nhị thiên dư tải, nhi kính phụng ích tân. Phàm hữu danh sơn
thắng cảnh, mạc bất khải thác dĩ kiến giác trường. Nhiên phi vương công đại
nhân, hoằng hộ khuông duy tắc mạc năng thành yên.
Ngưỡng-sơn Linh-xứng tự giả tức Thái uý lệnh công chi sở sáng dã. Công nhược
quán chi sơ, trạc nhập cấm thát nội thị Thái Tông hoàng đế. Vị du nhất kỷ, dự ái
nội đình. Kỵ Thánh Tông tán tự ngự vũ, công hiến tán tận qui, cần lao lữ lực,
nhi chiêu vu tả hữu, trạc thiên Kiểm hiệu thái bảo. Đãi Phật thệ bang ngạo pháp
bất đình, vương sư chấn cử. Công đĩnh thế thao lược, nhập thần y nhi thụ toán,
chế sư luật nhi truy thảo. Hoàn vương bôn thoán vô do, tự ách uyển nhi thụ
phược, toại cầm chi nhi chấn lữ qui yên. Đế niệm tư nguyên huân, gia bao tưởng
trật.
Thần Vũ trung bái Thái uý đồng trung thư môn hạ bình chương sự, tán tương quốc,
chính nhi triệu thứ lại chi.
Thái Ninh sơ, kim thượng Minh chiếu hoàng đế, ác đồ tức vị, toại dĩ công hữu Y,
Hoắc chi lượng, sử nhiếp đại chính, ký chúc xã tắc. Khoảnh giả Tống cảnh khuy du
quốc gia, công uẩn miếu toán chi đồ, thống quân tiêm cức tam châu tứ trại, thúc
như lạp hủ. Vị kỷ Tống sư cức lâm Như-nguyệt giang, thệ báo tam châu chi thù,
tái lặc quân dĩ ngự chi. Dĩ biện sĩ nhi nghị chi, cứ khôi túng thỉ, vô lao huyết
nục nhi bảo ninh tông xã. Đế ái kỳ dũng, di gia sủng kính. Anh Vũ Chiêu Thắng
sơ, bao Thiên tử nghĩa đệ, trí Ái-châu Cửu-chân quận, Thanh-hóa trấn chư quân
châu sự, phong thực Việt-thường vạn hộ.
Công nội thụ khoan minh; ngoại thi giản huệ. Di phong dịch tục; hà đạn cần lao.
Kịêm dĩ tòng sự, duyệt dĩ sử dân, dân sở lại chí. Khoan năng tế chúng, nhân, nhi
ái nhân, nhân sở kính chi. Uy nhi tiêm ác, chính dĩ quyết ngục, ngục vô lạm chi.
Thực tắc dân thiên, bang bản nông vụ, vụ bất thất chi. Thiện nhi bất phạt, dưỡng
cập dã lão, lão tất an chi. Như thử chi đạo, tắc khả vị ly dân chi bản, an dân
chi thuật, mỹ tại tư hỹ. Nhi công tam triều bật chính kiêm ngự định biên loạn, u
kỳ sổ niên nhi bát phương ninh bật, kỳ công thịnh hỹ.
Tuy thân câu tục đế nhi tâm toại nhiếp thừa. Cái thượng dữ mẫu hậu, sùng thượng
phù đồ chi giáo. Công tuân thừa nhị thánh huy chỉ, khả phù tri đại khi yên. Công
nhân trị khích chi hạ, Cảm thái hậu sư Sùng Tín trưởng lão, hốt tòng kinh sư
thích lai thử quận, bàng hành giáo hóa, đạo chư di tục nhi trừng ác hoài nhu.
Thi dĩ nhất vũ sở nhuận tam thảo, thục bất hân hân nhiên. Ư thị công dữ sư tố du
ư Phấn-đại hải môn; nghị chu ư Long-tỵ sơn cước. Đảo bạch thạch nhi bích ngọc
ngưng huy; khuy bạo tuyền nhi y khâm ánh thuỷ. Nhi nãi sáng đoản đình ư nhạc
lộc; khởi tuỵ đổ vu yên sao. Sư nãi tư ư công viết: "Thử sơn thắng kỳ, ký dĩ
khai thác, phục hữu hà xứ thanh u, di danh thắng tích, trù tích tằng văn, nguyện
dẫn gia phỏng?". Công viết: "Ngô sư chân hi pháp khí, toại tính khai mê. Tùy ư
lợi độn chi căn; dụ dĩ đốn tiệm chi giáo"
Phục lĩnh kỳ đồ, cổ duệ Tây tuần. Lịch Nam-thạc chi thanh giang; dạ phất ư
quận thành trung hữu cô tụ viết Ngưỡng-sơn. Cước bàn hử ngạn, phi dĩ phi hỗ, bất
nhai bất tiếu. Lam quang ngưng uất; đại sắc nhân uân. Giảo lĩnh hoàng hương; ủng
vi bối điện. Nhiệm phong chiểu phụ; tủng kỳ diện thế. Nẵng hữu ẩn giả, độc yêm
thử trung nhi duyên hóa chư phương. Tuy thị khai thác, tính giới vị nghiêm. Công
nãi xuất bộ thuộc, duyên kinh tương tê. Đãn kiến cổ mộc sâm thiện; hưng doanh
niệm khởi. Công nãi vị nhân trí sở lạc, sơn dã thủy dã; thế đại sở truyền; đạo
yên danh yên. Nhược phàm thác kỳ sơn nhi trứ đạo danh, bất túc dĩ quý hồ!
Ư thị tiễn hoang uế; tiên cự thạch. Nhật giả đạc phương; lương tượng trình thức.
Liên thuộc tấu quĩ; sĩ tục tranh xu. Thân ư lực tắc tái ký tái quyết; thiện ư
nghệ tắc tương cấu tương doanh. Phạn vũ khải ư tương đế; trai lang xưởng kỳ
lưỡng dịch. Đoan ngực tắc Ngũ trí Như lai, thuần xán kim sắc. Cao tòa phu xuất
thủy chi liên, hoàn đổ hội tố thập phương cực quả chi lệnh nghi cập kỳ chư đẳng
biến tướng, thiên thái vạn trạng bất khả thăng kỷ. Hậu khởi bảo tháp, mệnh viết
Chiêu-ân, Cửu trùng tằng yết, trương thiết võng phường; tứ diện môn khai, chu
táp lan thuẫn. Kim linh phong độ, dữ ư điểu chi hòa minh; biếu sát dương huy.
cộng trắc khim chi hỏang lệ. Hiên lan vi thế; hoa mộc la giai. Tiền hữu chính
môn, nội quản kim dung; kình chùy nhất kích. thanh vận khung nhị bạn sơ cừ nhi ô
thủy trú hạ, trẫm giang nhi bịêt lập đoản đình. Lược chước xung xung, vãng lai
nghị chu phại tức. Hoặc Hòan-lang Chân-lạp viễn xức nhi khuất tất chiêm y; dị
vực hà phương qui minh nhi cúc cung khể tảng. Bỉ trưởng giả hủy trạch nhi vương
xá đại thành.
Y!Chi viên nãi phụng Phật chi tịnh giới tư vị hoàn hỹ. Tứ kỳ cốc đán, lạc thành
khải tịch, đính chi lưu, tri y chi sĩ, vân tập thiền quynh, hàm đại hòa hội,
triệt xả nan họach trân hóa. Đản thiết trai tu, phi tuyên Vô thượng linh thuyên,
cảnh cáo hàm thức. Ngã Diệu Tính bà di Lý thị cữu công chi đích điệt, kỳ
di mỹ tu; anh giao thục chất. Thích Sùng Chân xử sĩ húy Trai phối thành Khang
lệ; khế hợp tùng la. Đản trưởng nho nam Hai, tự Tổ Bành, tòng thích nam nhất
viết Viên Giác sư Pháp Trí; nhị viết Minh Ngộ sư Pháp Ân. Thần Vũ sơ phụng chiếu
trừ kỳ tính danh, bất hệ công điển, tịch trang ư thử, nhi chủ trì yên. Nãi ư sơn
chi Đông hướng, biệt trí Thánh-ân tự, trung nghiễm tử ma kim dung, tính phụ dực
bồ tát chi túy nghi. Phàm đẩu bính tứ chu thiên, triệu tư thắng sự tất hỹ
Ô hô! Thả sinh súc ngã giả, mạc đại hồ quân phụ, cố năng kính chi; ẫn đực ngã
giả, mạc thượng hồ phúc huệ, thứ tại tin chi. Dĩ thử thuần hy; chúc tư hồng vận.
Hy đồ diên viễn, quốc dậng miên xương. Dư ích thân duyên, bội tăng tấn cốc. Nhi
công nãi vị ư dư viết: "Hưng công tích lũy, bảo giới ký hoàn, nhi bất minh kỷ
chi, tức hậu côn vô sở tuần tích". Nãi cầu văn chiêu thuật tự kỳ sở tác. Tỳ nhân
vật thiên di, thục thanh vĩnh bá. Dư thích thụ tri môn hạ, tự thổn dung lỗ, cố
từ phất dõan. Cảm yết thanh phân, thuyên vu thúy diệm.
Minh viết
Tam giới luân hồi,
Tứ sinh tri trục.
Vọng niệm sở sinh,
Sắc tâm điên phúc.
Thượng tứ tham sâu,
Khiên triền ái dục.
Khởi tự hoàng an,
Vô năng yếm túc.
Chí tai chân như,
Thể lượng thái hư.
Thần nhi bất trắc,
Hóa nhi hữu dư.
Nhất vũ bái nhuận,
Tam thảo manh thư.
Pháp chàng đại thụ,
Tà võng đốn trừ.
Việt hữu Lý công,
Cổ nhân chuẩn thức.
Mục quận ký ninh,
Chưởng sư tất khắc.
Danh dương hàm hạ,
Thanh chấn hà vực.
Tông giáo qui sùng,
Cảnh phúc thị thực.
Sơn chi tuấn hề tủng tình không,
Hiền tể trị hề xưởng quyết công.
Tuyệt đính nguy hề điện tháp sừng,
Trắc kim nghiêm hề bảo giới hùng.
Phúc tường tập hề chúc thần trung,
Bảo lịch miên hề thế xương long.
Cốc ngạn biến hề tích hà cùng,
Khắc minh vĩnh trác yên nham trung.
Dịch nghĩa
VĂN BIA CHÙA LINH XỨNG NÚI NGƯỠNG SƠN
Phật tổ soi tỏ cái thực mà chỉ thẳng chữ tâm; thánh nhân thích ứng theo thời mà
thông suốt muôn biến. "Muôn" là sự phân tán của "một"; "một" là cội nguồn của
"muôn". Đến như các bậc hiển thánh thỉnh thoảng ra đời, khuôn phép thay nhau dấy
lên. Nhóm cái đã phân tán để đưa nó về cội gốc; ôm cái "một" để thâu tóm
cái "muôn". Tạc nên hình tượng để biểu thị "sự thâu tóm"; dựng nên đền tháp để
có "sự hướng về". Hết tâm sức để kinh doanh; bỏ châu ngọc mà không tiếc. Cho nên
đường thì đặt ranh giới bằng giây vàng hiên thì phô sự quí giá của rèm châu. Tuy
rằng hết đỗi trang nghiêm; mà vẫn không hề xa xỉ. Bởi vì mục đich là ở sự tìm
cái "nhất" và cái "chân", chứ đâu phải chỉ cốt làm cho tấm lòng và con mắt chói
lòa mà khoe khoang sự tráng lệ vậy.
Từ khi có Phật giáo tới nay đã hơn hai nghìn năm, mà sự thờ phụng ngày càng thêm
mới. Hễ có cảnh đẹp núi non thì không nơi nào là không mở mang để xây dựng chùa
chiền, nhưng không có các bậc vương công đại nhân giúp đỡ thì làm sao mà nên
được.
Chùa Linh-xứng ở núi Ngưỡng-sơn tức là ngôi chùa do quan Thái úy xây dựng vậy.
Lúc quan Thái úy còn trẻ được chọn vào cấm đình, hầu vua Thái Tông, chưa đầy một
kỷ, tiếng khen đã nức nở ở nội đình. Đến khi vua Thánh Tông nối ngôi trị nước,
Thái úy hết lòng giúp đỡ. Ra sức siêng năng, nổi bật trong hàng tả hữu, được
thăng chức Kiểm hiệu thái bảo. Khi nước Phật Thệ khinh nhờn phép tắc,
không chịu vào chầu, vương sư rầm rộ tiến đánh. Thái úy thao lược hơn đời, vào
cung vua mà nhận mưu chước, chế quân luật mà đuổi đánh quân thù. Hoàn
vương không đường chạy trốn, đành tự bó tay mà chịu cắt tai. Bắt được y rồi,
Thái úy mới rút quân về. Vua nghĩ công lớn ấy, bèn ban khen và thăng chức.
Giữa khoảng niên hiệu Thần Vũ (1069-1072), được phong chức Thái úy đồng trung
thư môn hạ chương sự, giúp đỡ việc chính sự của nước nhà, muôn dân được nhờ ơn
rất nhiều vậy.
Đầu niên hiệu Thái Ninh (1072-1075), đức kim thượng Minh hiếu hoàng đế lên ngôi,
Thái úy lấy tư cách là Y Doãn. Hoắc Quang được nhà vua giáo phó nhiếp chính và
gửi gắm công việc xã tắc. Bỗng chốc quân biên giới nhà Tống dòm ngó nước ta.
Thái úy nắm sẵn mưu chước của triều đình, thống lĩnh quân sĩ, diệt ba châu, bốn
trại dễ dàng như bẻ cành gỗ mục. Chẳng bao lâu [quân giặc] ồ ạt kéo đến sông
Như Nguyệt, thề trả thù cho ba châu, Thái úy lại cầm quân chống giặc. Thái úy
lấy tư cách biện sĩ mà phân tích cho giặc, không vất vả mà bọn đầu sỏ rã rời
nhụt chí. Thế là giữ được an ninh cho xã tắc. Vua mến Thái úy dũng cảm nên càng
thêm sủng kính. Đầu năm Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084), Thái úy được phong làm
em nuôi vua, trông nom mọi việc quân ở các châu thuộc trấn Thanh Hóa, quận
Cửu Chân, châu Ái và phong cho thái ấp một vạn hộ ở Việt Thường.
Thái úy trong thì sáng suốt khoan hòa, ngoài thì nhân từ giản dị. Những việc đổi
dời phong tục, nào có quản công. Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn
hòa, cho nên dân được nhờ là vậy. Khoan hòa giúp đỡ quần chúng, nhân từ yêu mến
mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng oai vũ để trừ bọn gian ác, đem minh
chính để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm. Thái úy biết dân
lấy no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài
giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng cả đến người già ở nơi thôn dã, cho nên
người già nhờ đó mà được yên thân. Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị
nước, cái thuật yên dân, sự đẹp tốt đều ở đấy cả. Giúp chính sự cho ba triều,
dẹp yên lọan ngoài biên tái, chỉ khoảng vài năm mà tám phương yên lặng, công
thật lớn lao.
Thái úy tuy thân vướng việc đời, mà lòng vẫn hướng về đạo Phật. Có lẽ vì nhà vua
và mẫu hậu tôn sùng giáo lý nhà Phật đó chăng? Cho nên Thái úy vâng theo ý chỉ
của đức vua và mẫu hậu mà nâng đỡ Phật pháp vậy. Nhân lúc rảnh việc triều đình,
ông thầy của thái hậu là Trưởng lão Sùng Tín bỗng từ kinh sư đến quận này, mở
mang giáo hóa, khơi thông mọi tập lục khác lạ, răn điều ác, chỉ điều thiện, khác
nào một trận mưa rào thấm nhuần cây cỏ, không ai là không hớn hở vui tươi Thế là
Thái úy cùng trưởng lão ngược dòng lên cửa Phấn Đại, dừng thuyền ở chân núi
Long Tỵ. Xem đá trắng mà ngọc châu lấp lánh; dòm thác nguồn mà xiêm áo lung
linh. Do đó Thái úy khuyên dựng đoản đình ở ngay chân núi, xây tường lớn ở chốn
non cao. Trưởng lão hỏi rằng:
- Núi này đẹp, nhưng đã mở mang mất rồi, còn có nơi nào thanh u, nổi tiếng đẹp
đẽ hơn, mà xưa kia đã từng nghe nói, thì xin dẫn tới xem.
Thái úy trả lời:
- Trưởng lão thực là một người có thể thực hành được đạo Phật, thỏa được tính
sáng, mở được lòng mê, bằng cách tùy theo cái căn tính lanh lợi hay ngu dần mà
chi cho phép "đốn" hay phép "tiệm".
Rồi đó, Thái úy lại dẫn những người tùy tùng, dời thuyền di về phía Tây, qua
dòng sông trong Nam Thạc, đến ấp nổi danh Đại Lý. Dạo bước bến đò, đưa mắt xem
xét, thấp thoáng thấy ở trong quận, cách quận lỵ độ chừng năm dặm có hòn núi trơ
vơ gọi là Ngưỡng Sơn. Chân núi quanh co bên bờ nước, đâu phải núi đồi dĩ, hỗ, lại
không vách đứng tường cao. Bóng lam ngùn ngụt, sắc thúy đậm đà, quanh quất làng
xa, bao quanh điện Bắc. Gò ao khắp núi, hình thế lạ kỳ. Trước đây có một ẩn sĩ
riêng xây am trong ấy và di duyên hóa mọi phương, tuy đã mở mang, nhưng tịnh
giới chưa được nghiêm nhặt. Thái úy lại dẫn bộ thuộc theo lối tắt trèo lên, chỉ
thấy cây cổ rợp trời, ráng mây vương vất. Thái úy bồi hồi dạo bước, trên dưới
ngắm trông. Thế là vì tấm lòng ưa thích sự vui vẻ, thương xót quần sinh mà ý
nghĩ kinh doanh trỗi dậy. Thái úy bảo rằng:
- Cái mà kẻ trí người nhân yêu thích là núi, là sông; cái mà thế đại lưu truyền
là danh, là đạo. Nếu mở núi mà làm cho "đạo" và "danh" rạng rỡ thì không đáng
quý hay sao?
Thế là phát cỏ rậm, bạt đá to, thày bói nhằm phương, thợ hay dâng kiểu; quan
thuộc góp tiền, sĩ dân đổ tới. Kém sức thì bào, thì gọt; sành nghề thì dựng thì
xây. Chùa Phật thênh thang ở giữa; phòng chay rộng rãi hai bên. Trang nghiêm
chính giữa thì Ngũ trí Như lai sắc vàng rực rỡ, ngồi trên tòa sen trồi lên mặt
nước Quanh tường thì thêu vẽ dung nghi đẹp đẽ của cực quả mười phương cùng với
mọi hình tướng biến hóa, muôn hình vạn tượng, không thể kể xiết. Phía sau xây
ngôi tháp báu gọi là tháp Chiêu Ân, chín tầng chót vót, giăng mắc rèm the, cửa
mở bốn bên, bao quanh con tiện. Gió rung chuông bạc; hòa nhịp chim rừng. Tháp
báu nắng soi; long lanh vàng diệp. Quanh thềm lan can; đầy sân hoa cỏ. Trước cửa
chính, trong treo chuông vàng, một tiếng chày kinh; ngân vang khắp chốn. Thức
tỉnh kẻ u mê; phá tan niềm hôn tục. Khuyên bảo việc lành; răn đe điều ác. Thẳng
ngay phía trước một đường hai ngả, khơi mương và dẫn nước chảy xuôi. Bên giòng
nước dựng xây đình nhỏ, san sát thuyền bè qua lại, dừng chèo tạm nghỉ. Hoặc
Hoàn-bang, Chân-lạp xa tới mà quỳ gối ngắm xem; hoặc nước lạ phương xa qui phục
mà cuối đầu dập trán. Cái nhà nát của kẻ trưởng giả quê mùa mà hóa thành
Vương Xá lớn.
Ôi! Cõi tịnh thờ Phật có thể gọi là hoàn thành vậy. Nhân ngày tốt, mở tiệc khánh
thành, bọn người mũ ni, kẻ sĩ áo thâm như mây kéo tới. Cửa ngoài mở hội Thái hòa
triệt bỏ những đồ vật quí. Sửa soạn tiệc chay, tuyên đọc lời kinh Vô thượng thức
tỉnh chúng sinh. Tín nữ Diệu Tính, cháu gọi Thái úy bằng cậu, là người dung mạo
xinh tươi, tư chất hiền thục, kết thành đôi lứa với xử sĩ Sùng Chân, tên húy là
Trai. Vợ chồng hòa hợp, sinh được con trai đầu lòng theo đạo học Nho, tên húy là
Hai, tên chữ là Tổ Bành và hai con trai theo học đạo Phật, một gọi là Sư Viên
Giác, pháp hiệu là Pháp Trí, một gọi là Sư Minh Ngộ, Pháp hiệu là Pháp Ân. Đầu
niên hiệu là Thần Vũ vâng chiếu nhà vua, rút họ tên ra khỏi công điền, rồi mở
trang viên ở đấy mà trụ trì. Thế là bà nhằm phía Đông núi, dựng riêng một ngôi
chùa, gọi là chùa Thánh Ân, trong đặt Phật vàng và các vị bồ tát ở hai bên, trải
qua bốn năm, công việc mới hoàn thành.
Ôi! Sinh thành và nuôi nấng ta, có ai bằng vua và cha, cho nên phải kính trọng ;
dắt dẫn và che chở ta, còn gì là phúc huệ, cho nên phải tin theo. Đem phúc to
này, chúc vận lớn ấy. Nghiệp trời dằng dặc dài lâu; vận nước đời đời thịnh
vượng. Nhân duyên thêm mãi; phúc lộc càng tăng.
Thế rồi Thái úy bảo tôi rằng:
- Xây dựng lâu ngày, cõi báu đã xong, nếu không khắc bia ghi lại thì con cháu
mai sau không biết tìm đâu để noi theo dấu vết, nên phải dùng văn trình bày rõ
ráng công việc đã làm, để cho dù nhân vật có đổi dời thì tiếng lành vẫn truyền
mãi.
Tôi lúc này đang làm việc dưới cửa quân của Thái úy. Tự nghĩ mình tầm thường kém
cỏi, nhưng chối mãi không được, đành mạo muội nêu lên cái phẩm chất trong sáng,
thơm tho của người khác để khắc vào bia đá.
Lời minh rằng:
Tam giới luân hồi,
Tứ sinh luẩn quẩn.
Vọng niệm sinh ra,
Sắc tâm nghiêng ngửa.
Buông lỏng lòng gian tham.
Vấn vương niêm ái, dục.
Há dễ tự yên đâu,
Không sao thỏa được.
Cùng tột thay chân như,
Thể lượng là thái hư.
Linh diệu khôn lường,
Biến hóa vô cùng.
[Như] giọt mưa nhuần đượm,
[Làm cho] cây cỏ mùa xuân nẩy mầm như thái.
Cờ pháp dựng lên,
Lưới tà tan hết.
Nay có Lý công,
Theo được mẫu mực của người xưa.
Trị dân đã yên,
Cầm quân là thắng giặc.
Danh lừng tới Trung hạ,
Tiếng nức tới phương xa.
Lại sùng thượng tông giáo,
Vun trồng phúc đức.
Cao vòi vọi như trái núi vút lên từng không,
Bậc hiền tể trị nước, mở rộng công đức của mình.
Điện tháp nguy nga như non cao chót vót,
Cõi báu oai hùng với vàng son rực rõ.
Chúc nhà vua phúc lành dồn tới,
Ngôi báu lâu dài, đời đời thịnh vượng.
Tuy hang sâu cồn rậm đổi dời, nhưng dấu vết khôn cùng,
Tấm bia khắc bài minh này sừng sững mãi trong khói lam.
Dịch thơ
Luân hồi tam giới,
Luẩn quẩn tứ sinh.
Sắc tâm nghiêng ngửa,
Vọng niệm sinh thành.
Tham tà buông lỏng,
Ái dục ràng quanh.
Dễ đâu yên được,
Không sao thỏa tình.
Cùng tột chân như!
Thể lượng Thái hư.
Khôn lường linh diệu,
Biến hóa có thừa.
Mưa nhuần thấm đượm,
Cây cỏ sởn sơ.
Giương cao cờ phướn,
Dẹp hết tà nhơ.
Lý công nước Việt,
Noi dấu tiền nhân.
Cầm quân tất thắng,
Trị nước yên dân.
Danh lừng Trung hạ,
Tiếng nức xa gần.
Vun trồng phúc đức,
Đạo phật sùng tin.
Núi cao chót vót chừ, chọc thủng từng không.
Hiền tể trị nước chừ, lớn mãi huân công!
Nguy nga tột bực chừ, điện tháp mênh mông!
Vàng son rực rỡ chừ, cõi báu oai hùng!
Dồn dập phúc lành chừ, chúc đấng thần trung.
Ngôi báu lâu dài chừ, thịnh vượng nối dòng!
Cồn khe đổi đời chừ, dấu vết khôn cùng.
Bài minh sừng sững chừ, giữa chốn núi sông!
NGUYỄN ĐỨC VÂN-ĐỖ VĂN HỶ