Cover Image
Đóng cuốn sách này Phạm Sư Mạnh
(PhamSuManh.htm)
đóng thư mục này Tác phẩm
Xem tài liệu Hành Dịch Đăng Gia Sơn
Xem tài liệu Đông Sơn Tự Hồ Thượng Lâu
Xem tài liệu Quá Hoàng Long Động
Xem tài liệu Quá Tiêu Tương
Xem tài liệu Đề Cam Lộ Tự
Xem tài liệu Chu Trung Tức Sự
Xem tài liệu Quá An Phủ Nguyễn Sĩ Cố Phần
Xem tài liệu Đăng Dục Thúy Sơn Lưu Đề
Xem tài liệu Hổ Giá Thiên Trường Thư Sự
Xem tài liệu Xuân Nhật Ứng Chế
Xem tài liệu Du Phật Tích Sơn Ngẫu Đề
Xem tài liệu Tiễn Vũ Văn Đồng Nhất Dụ Chiêm Thành Quốc
Xem tài liệu Ô Giang Hạng Vũ Miếu
Xem tài liệu Án Thao Giang Lộ
Xem tài liệu Hành Quận
Xem tài liệu Tuần Thị Chân Đăng Châu
Xem tài liệu Đề Gia Cát Thạch
Xem tài liệu Đăng Thiên Kỳ Sơn Lưu Đề
Xem tài liệu Đề Hiệp Sơn Bão Phúc Nham
Xem tài liệu Quan Bắc
Xem tài liệu Đề Đông Triều Hoa Nham
Xem tài liệu Lạng Sơn Đạo Trung
Xem tài liệu Tam Thanh Động
Xem tài liệu Thượng Ngao
Xem tài liệu Quang Lang Đạo Trung
Xem tài liệu Chi Lăng Động
Xem tài liệu Đề Báo Thiên Tháp
Xem tài liệu Họa Đại Minh Sứ Dư Quý
Xem tài liệu Hoa Đại Minh Sứ Đề Nhị Hà Dịch
Xem tài liệu Tái Họa Đại Minh Quốc Sứ Dư Quý
Xem tài liệu Tống Đại Minh Quốc Sứ Dư Quý
Xem tài liệu Sơn Hành
Xem tài liệu Đăng Hoàng Lâu Tẩu Bút Thị Bắc Sứ Thị Giảng Dư Gia Tân
Xem tài liệu Sùng Nghiêm Sự Vân Lỗi Sơn Đại Bi Tự

HỌA ĐẠI MINH SỨ ĐỀ NHỊ HÀ DỊCH

Kỳ nhất

Chấn Tân đình thượng chiêu suy dung,

Phong quyết phiên phiên nhất sấu cùng.

Quần lĩnh tịch dương hoàn ngọc nhị,

Tam giang tuyết lãng hối phù long.

Trì khu vạn lý phát mao bạch,

Sĩ hoạn đa niên dã hứng nồng.

Hỷ độc công thi hữu giai ý,

Mãn khâm hòa khí lạc ung ung.

Kỳ nhị

Thủy ngân thiên khoảnh ngọc phù dung,

Vạn tượng đô tương nhập tiểu cùng.

Đại Hán ba đào phù nhật nguyệt,

Nhị hà đình thụ ấn cù long.

Dao cầm la tới thi thi hảo,

Thiết hoạch ngân câu tự tự nồng.

Thiên sứ dịch trugn đa hữu hạ,

Nam ngoa sóc bị dị biến thời ung!

Kỳ tam

Tân triều sứ giả lạc thung dung,

Giang thượng xuân phong thí ỷ cùng.

Ngọc Nhị hàn quang xâm quảng dã,

Tản Viên tễ sắc chiếu Thăng Long.

Văn Lang thành cổ sơn trùng điệp,

Ông Trọng từ thâm vân đạm nồng.

Túy mặc lâm ly đề dịch bích,

Thanh triều nhân vật thịnh tam ung.

Dịch nghĩa

HỌA THƠ "ĐỀ TRẠM NHỊ HÀ" CỦA SỨ THẦN MINH

Bài thứ nhất

Trên đình Chấn Tân, soi thấy nét mặt võ vàng,

Tay áo phất phơ trước gió với chiếc gậy khẳng khiu.

Bóng chiều các ngọn núi, bao quanh vòng ngọc.

Sóng tuyết ba dòng sông, dồn vào con rồng nổi.

Vạn dặm ruổi rong đầu trắng bạch,

Làm quan đã lâu năm, mà hứng quê vẫn đậm.

Đọc thơ ông mừng có tứ hay,

Hòa khí đầy trong lòng, niềm vui phơi phới.

Bài thứ hai

Nước bạc ngàn khoảnh như hoa sen ngọc,

Muôn cảnh đều thu vào chiếc gậy trúc nhỏ.

Sóng sông Ngân Hán, nổi mặt trời mặt trăng,

Đình cây sông nhị Hà, in bóng rồng.

Câu thơ đẹp tựa đàn ngọc, đai lụa,

Nét chữ đanh như thép, bạc.

Trong nhà trạm, sứ thần thường rảnh rỗi,

Kể chuyện lạ phương nam, phương bắc thật vui

Bài thứ ba

Sứ giả triều mới vui vẻ, thung dung,

Trước gió xuân trên sông, chống chiếc gậy trúc.

Sông Nhị như ngọc, sáng mát thấm đồng ruộng,

Tản Viên khi tạnh, sắc núi chiếu đến Thăng Long.

Thành cổ Văn Lang, núi non trùng điệp,

Đền Ông Trọng thâm nghiêm, mây đạm nhạt.

Mực say còn lai láng đề trên vách nhà trạm,

Nhân vật thời thịnh, vui vẻ thuận hòa.