I
Đông kinh hình thắng củng thiên phù,
Cơ nghiệp hoằng khai vạn thế mô.
Thúy lãng ngọc hồng sơn thủy quốc,
Bích môn kim khuyết đế vương đô.
Hải Thành thổ cống bao cam quất,
Thiên thuộc quân trang vệ trục lô.
Đại giá niên niên tuần cố trạch,
Nhạc kỳ xuyên hậu tác tiền khu.
II
Tức Mặc hành đô cổ Giản Triền,
Dân hi tục cổ thái bình niên.
Vinh hà thủy nhiễu cửu trùng điện,
Bảo khẩu phong dao bách trượng thuyền.
Lưỡng ngạn tân sương kim quất quốc,
Mãn thành tế vũ thổ hà thiên.
Tiểu thần tuế tuế bồi loan lộ,
Y cựu lam bào tư lệ tiền.
GHI LẠI VIỆC HẦU VUA VỀ THIÊN TRƯỜNG
I
Hình thế đẹp nơi Đông Kính chầu về nhà vua,
Cơ nghiệp mở rộng quy mô muôn thuở.
Một miền sơn thủy sóng xanh, cầu vồng ngọc,
Kinh đô đế vương cửa biếc, khuyết vàng.
Công phẩm của Hải Thành gồm có cam với quýt,
Đội quân triều đình trang bị các chiến thuyền hộ vệ.
Xa giá nhà vua hàng năm về thăm quê cũ,
Thần núi thần sông làm kẽ dẫn đường.
II
Hành đô Tức Mạc như miền sông Giản sông Triền xưa,
Nhân dân vui vẻ, phong tục chất phác giữa những năm thái bình.
Nước sông Vinh vây quanh toà điện chín tầng,
Gió cửa Bảo lay động con thuyền trăm trượng.
Sương mới hai bên bờ một vùng quít vàng,
Mưa phùn đầy thành, một trời rươi.
Kẻ hạ thần hàng năm theo hầu xe loan,
Vẫn là viên Tư lệ áo lam như cũ.
Hình thắng Đông Kinh hộ ấn vàng,
Muôn năm cơ nghiệp mở huy hoàng.
Sóng xanh, cầu ngọc, miền sơn thuỷ.
Cửa biếc cung vàng đất đế vương.
Cam quýt ngon tươi dâng thổ sản,
Thuyền cồ hùng mạnh rực quân trang.
Mỗi năm thánh giá về quê cũ,
Thần núi sông đi trước dẫn hàng.
Tức Mặc hành đô cảnh lạ lùng,
Dân vui đời thịnh lại thuần phong.
Gió đưa cửa Bảo thuyền trăm trượng,
Nước diễu sông Vinh điện chín trùng.
Cả xứ mưa bay rươi trắng nõn,
Hai bờ sương xuống quýt vàng hung,
Hàng năm thần tử, hầu loan giá.
Vấn tấm bào lam mãi ruổi rong
ĐÀO PHƯƠNG BÌNH