Cử:
- Niết bàn kinh vân:
Chư hành vô thường,
Thị sinh diệt pháp.
Sư vân:
- Thùy sinh diệt?
Tụng viết:
"Chư hành vô thường,
Thị sinh diệt pháp".
Tam giới vũ mông mông,
Thập phương phong táp táp.
Phàm thánh bất đồng cư,
Long xà phi hỗn tạp.
Chư hành vô thường nhất thiết không,
Sinh diệt chi tâm thùy vấn đáp?
Nhược phùng đống nũng lão Cồ-đàm,
Vị miễn lan hung đạp.
Đốt!
Bất kiến dương hòa sắc,
Năng khan đào lý khai.
*
Cử:
"Sinh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc"
Độn điểu man thê lô,
Khốn ngư nhàn chỉ bạc.
Bất quản thân khởi bệnh,
Khủng lao thủ tác dược.
Hưu tương phụ trùng đởm,
Quá độc mộc kiều trước.
Quy gia bãi vấn trình,
Tòng hà lai thất cước,
Vạn nhất bất đắc dĩ,
Y tiền khán mưu lược.
Di!
Nhược dã bất nhân mê địch ngan,
Hồ vi đắc đáo Vũ-lăng khê.
Cử:
- Duy ma kinh vân:
"Quán thân thực tướng,
Quán Phật diệc nhiên".
Sư thất tiếu.
Tụng viết:
"Quán thân thực tướng,
Quán Phật diệc nhiên".
Càu châm lạc địa,
Ngưỡng diện khuy thiên.
Bản lai vô thống phúc,
Kim nhật hữu đa khiên.
Vô nhọc hoàn cầu phọc,
Phi thiền khước tựu triền.
Hổ cứ chân hổ cứ,
Long miên thị long miên.
Dục tri thân dữ Phật,
Chủng ngẫu xuất hông liên.
Ngọc giám đoàn đoàn sinh hải giác,
Chỉ nhân niết mục hữu di thiên.
*
Cử:
- Hoa nghiêm kinh vân:
"Nhất thiết pháp bất sinh,
Nhất thiết pháp bất diệt.
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền".
Sư vân:
- Khán! Khán!
Hựu vân:
Cao thanh cáo tĩnh,
Chỉ bính khiết miến.
Hát.
Tụng viết:
Hoàng đầu nhiêu thiệt thiệm chúng sinh,
Xứ xứ miên thời độc tự hành.
Bât quản dạ lan do mộng lý,
Đinh đông phượng khuyết hiểu thôi canh.
*
Cử:
- Vạn Tuế Thiền sư. Tăng vấn: "Đại chúng vân tập", hợp đàm hà sự?" Sư vân: "Tự
phẩm đệ nhất".
Sư vân:
- Đệ nhị diệc đắc.
Tụng viết:
Xuất tự phẩm đệ nhất,
Thượng hạ vô đẳng sất.
Trí giả vô thực hư,
Mê nhân sinh đắc thất.
Mộc nhân vũ thác chi,
Thạch nữ xuy tất lật.
Dục cầu minh thử ý,
Bát nhã ba-la-mật.
*
Cử:
- Tăng vấn Trường Sa Sầm: "Khâu dẫn trảm vi lưỡng đoạn, lưỡng đầu câu động; Phật
tính tại na đầu? "Sa vân: "Động dữ bất động, thị hà cảnh giới?"
Sư vân:
Lưỡng biên phi động,
Động tại nhữ biên.
Tụng viết:
Khâu dẫn trảm vi lưỡng đoạn thì,
Lưỡng đầu câu động hữu thùy tri.
Vấn lai Phật tính toàn nan đắc,
Cô phụ khoa trường tạng lúc quy.
*
Cử:
- Triệu Châu: Hữu tăng tả đắc sư chân, trình sư. Sư vân: "Thả đạo. Tự ngã? Bất
tự ngã? Nhược tự ngã, đả sát lão tăng. Nhược bất tự, tức thiêu khước chân". Tăng
vô ngữ.
Sư vân:
- Câu thị phí công phu.
Tụng viết:
Tử thố phong tiêm ngọc bản tân,
Ám miêu uyển đắc bản lai thân.
Túng nhiêu đã sát hoàn thiêu khước,
Thiên thượng nhân gian năng kỷ nhân.
*
Cử:
- Quy Sơn phong thất diện kính, ký Ngưỡng Sơn. Sơn thượng đường đề khởi vân:
"Thả đạo! Thị Quy Sơn kính? Thị Ngưỡng Sơn kính? Hữu nhân đạo đắc, tức bất phác
phs". Chúng vô ngữ. Sư nãi phác phá.
Sư vân:
- Vị miễn Quy Sơn hạt.
Hựu vân:
- Dĩ tế hạnh nhi khí đại thừa.
Tụng viết:
Bảo kính châm phong nhất hướng tiền,
Đề tư nghiên xú tự câu tuyền.
Phá tương khước phụ dung lai ý,
Chỉ hứa thanh quang tự tại huyền.
*
Cử:
- Lão Tử viết: "Sủng nhục nhược kinh".
Sư vân:
Thủ trung xảo họa thiên ban vật,
Tâm thượng duyên sinh vạn lự ưu.
Tụng viết:
Hàn tự trước y nhiệt thoát y,
Vô hàn vô nhiệt hữu thùy tri?
Đãn khan ngự liễu cung hoa sắc,
Bất độc tầm xuân hoại tử thì.
*
Cử:
- Lâm Tế đáo tháp chủ. Tháp chủ viết: "Tiên lễ Phật? Tiên lễ Tổ?". Sư viết: "Tổ
Phật câu bất lễ". Tháp chủ viết: "Tổ Phật dữ Trưởng lão hữu thập ma oan gia câu
bất lễ?" Sư tiện phất tu nhi xuất.
Sư vân:
Đắc kỵ hổ đầu,
Bất loát hổ tu.
Tụng viết:
Nhất trùng phất tụ đẳng nhàn hành,
Tháp chủ man can hãn bất sinh.
Phật tổ đáo đầu câu bất lễ,
Thu quang hiểu giản ngọc sùng vinh.
*
Cử:
- Trần tôn giả vấn tăng thập ma xứ lai. Tăng trừng mục thị chi.
Sư vân:
Lư tiều mã hậu hán!
Đạo tương nhất cú lai.
Tăng vô ngữ.
Tụng viết:
Lư tiều mã hậu mạc hoành hành,
Mã đạp lư đề tác ma sinh.
Tạc dạ mộng trung nhân tấn ngữ,
Lưỡng thi mai hạ nhất trường khanh.
*
Cử:
- Cảnh Thông hậu trụ Hoắc-sơn. Hữu hành giả vấn: "Như hà thị Phật pháp đại ý?"
Sư nãi lễ bái. Hành giả vân: "Hòa thượng vị thập ma lễ tục nhân? Sư viết: "Nhữ
bất kiến đạo: tôn trọng đệ tử".
Sư vân:
- Duy chi dữ a, tương khứ kỷ hà?
Hựu sư vấn: "Thập ma xứ lai?" Tăng đề khởi tọa cụ. Sư viết: "Long đầu xà vĩ".
Sư vân:
- Nguyệt ảnh bất thị nhất gia kế hoạt.
Hựu tăng vấn: "Như hà thị Phật?". Sư đã chi. tăng diệc đả sư. Sư viết: "Nhữ đả
ngã hữu đạo lý. Ngã đả nhữ vô đạo lý". Tăng vô ngữ. Sư nãi sấn xuất.
Sư vân:
- Nhất cá ương dĩ bạo binh, đương vô nghĩa kỹ
- Nhất cá phục kê bác ly, nhũ khuyển phạm hổ.
Tụng viết:
Tướng quân tam bá vị công thành,
Nhất đế truyền văn lục quốc thanh.
Tài liễu thiên thương cam chiến giải,
Hựu văn vạn mã hám thu thanh.
*
Cử:
- Đàm Không Hòa thượng. Hữu ni dục khai đường thuyết pháp Sư viết: "Ni nữ bất
dụng khai đường". Ni viết: "Long nữ bát tếu thành Phật, hựu tác thập ma sinh?".
Sư vân: "Long nữ thập bát biến, nhữ dữ lão tăng thí nhất biến khán!". Ni viết:
"Biến đắc chỉ thị dã hồ tinh". Sư nãi đả sấn.
Sư vân:
- Thị tức thị, do trệ nhất tuyến đạo.
Tụng viết:
Thâm lân diệu pháp dục huyền đàm,
Tranh nại huề lam dã phóng lam.
Đả sấn dã hồ tinh ý chỉ,
Tiền tam tam dữ hậu tam tam.
Dịch nghĩa
TỤNG CỔ
PHÁP SINH DIỆT
Nên:
- Kính Niết-bàn nói:
"Muôn vật vô thường,
Ấy sinh diệt pháp".
Sư hỏi:
- Ai sinh diệt?
Tụng rằng:
"Muôn vật vô thường,
Ấy sinh diệt pháp".
Ba cõi mưa sa,
Mười phương gió táp.
Phàm thánh chẳng chung nơi,
Rắn rồng không hỗn tạp.
Muôn vật vô thường thảy thảy không,
Sinh diệt tâm kia ai hỏi đáp?
Ví gặp Cồ-đàm quen cóng lạnh,
Tránh sao khỏi ngang hông một đạp,
Ối!
Chưa thấy mùa xuân ấm áp,
Nào hay đào lý đơm bông?
TRÚC THIÊN
(Bản dịch THƯỢNG SĨ NGŨ LỤC)
*
NIẾT BÀN VUI
Nêu:
"Sinh diệt diệt hết,
Tịch diệt là vui".
Sư nói:
- Uyên Minh chau mày làm gì?
Tụng rằng:
"Sinh diệt diệt hết,
Tịch diệt là vui".
Chim mỏi đậu khóm lan,
Cá mệt chìm đáy nước.
Quản gì thân nhuốm đau,
Sợ nhọc tay chế thuốc.
Đừng gánh nặng vai mang,
Mới qua cầu "khỉ" được.
Về nhà chớ hỏi đường,
Vì đâu mà lạc bước.
Muôn một không thể dừng,
Mưu kế nhìn người trước.
Ối!
Giá chẳng mê lầm tại bến lau,
Khe suối Vũ-lăng sao đến được.
TRÚC THIÊN
(Bản dịch THƯỢNG SĨ NGŨ LỤC)
*
QUÁN THÂN - QUÁN PHẬT
Nêu:
- Kinh Duy ma nói:
"Quán được thực tướng của thân thế nào,
Thì quán Phật cũng như vậy".
Sư nở nụ cười:
Tụng rằng:
"Quán thân thực tướng,
Quán Phật thế thôi".
Tìm kim dưới đất,
Ngửa mặt nhìn trời.
Xưa kia không tấc dạ,
Nay lầm lỗi bời bời.
Chẳng trói tự tìm trói,
Không lôi cung tìm lôi.
Rồng ngủ là rồng ngủ,
Hổ ngồi thực hổ ngồi.
Muốn biết thân và Phật,
Ngó sen nảy đóa tươi.
Gương ngọc tròn xoay nơi góc biển,
Chỉ do hoa mắt hóa thay đời.
HUỆ CHI
*
KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT
Nêu:
- Kinh Hoa nghiêm nói:
"Mọi pháp đều không sinh,
Mọi pháp đều không mất.
Nếu thấu rõ lẽ này,
Phật hiện ngay trước mắt.
Sư nói:
- Xem đi! Xem đi!
Lại nói:
Cao giọng để im đi,
Bỏ bánh mà ăn bột.
Hét
Tụng rằng:
Hoàng đầu múa lưỡi trộ sinh linh,
Khắp chốn giấc say, dạo một mình.
Chẳng kể sáng đêm còn mộng mị,
Lầu son chuông đã gịuc tàn canh.
HUỆ CHI
*
THỨ NHẤT - THỨ NHÌ
Nêu:
- Thiền sư Vạn Tuế. Một môn tăng hỏi: "Mọi người đã họp lại như mây, để cùng
nhau bàn luận về việc gì vậy?" Sư đáp: "Tự phẩm thứ nhất"
Sư nói:
- Thứ nhì cũng được.
Tụng rằng:
Từ tự phẩm thứ nhất,
Dưới trên không thứ bậc.
Bậc trí chẳng thực hư,
Kẻ ngu sinh được mất.
Người gỗ múa thác chi,
Gái đá thổi tất lật.
Muốn sáng rõ ý này,
Bát nhã ba-la-mật.
HUỆ CHI
*
HAI PHÍA ĐỀU ĐỘNG
Nêu:
- Một thiền tăng hỏi Trương Sa Sầm: "Con giun bị chém làm hai đoạn, hai phía đều
động, vậy Phật tính ở phía nào?" Sư hỏi lại: "Động và bất động là cảnh giới
nào?"
Sư nói:
Hai phía đều chẳng động,
Động ở phía nhà ngươi.
Tụng rằng:
Chặt đứt con giun thành hai khúc,
Hai đầu đều động, có ai ngờ.
Hỏi rằng tính Phật không hè biết,
Mổ bụng cất rùa uổng phí chưa!
ĐỖ VĂN HỶ
*
GIỐNG TA - KHÔNG GIỐNG TA
Nêu:
- Thiền sư Triệu Châu. Có mọt Thiền tăng vẽ được bức chân dung của Thiền sư, đem
trình. Sư bảo: "Hãy nói xem! Giống ta chăng? Không giống ta chăng? Nếu giống ta
thì đánh chết lão tăng này đi. Nếu không giống thì đốt quách bức hình". Thiền
tăng không trả lời được.
Sư nói:
- Rõ là uổng công phí sức.
Tụng rằng:
Mũi nhọn bút lông, khuông giấy báu,
"Bản lai" thân ấy vẽ cho rành.
Ví tha tội chết thì đem đốt,
Thượng giới trần gian mấy kẻ sành.
ĐỖ VĂN HỶ
*
GƯƠNG QUY SƠN - GƯƠNG NGƯỠNG SƠN
Nêu:
- Qui Sơn gói một tấm gương gửi Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn lên giảng đường giơ lên
nói: "Hãy nói xem! Đây là gương của Quy Sơn? Hay gương của Ngưỡng Sơn? Nếu ai
nói được thì ta sẽ không đập vỡ". Mọi người im lặng. Sư bèn đập vỡ tấm gương.
Sư nói:
- Chưa tránh khỏi cái họa Quy Sơn.
Lại nói tiếp:
- Tham cái hạnh nhỏ mà bỏ cái thừa lớn.
Tụng rằng:
Phong gói trình lên một tấm gương,
Nhắc cho xấu đẹp đủ đôi đường.
Đập đi nỡ phụ người trao tặng,
Tự tại treo cao vẻ rỡ ràng.
HUỆ CHI
*
VINH NHỤC ĐỀU SỢ NHƯ NHAU
Nêu:
- Lão Tử nói: "Vinh nhục đều sợ như nhau".
Sư nói:
Tay khéo vẽ nên ngàn sự vật,
Lòng càn thêm nảy vạn lo âu.
Tụng rằng:
Nồng cởi áo ra, lạnh khoác vô,
Không nồng không lạnh, biết sao giờ?
Xem màu liễu ngự hoa cung đấy,
Lọ phải tìm xuân hỏng bốn mùa.
TRÚC THIÊN
(Bản dịch THƯỢNG SĨ NGŨ LỤC)
*
KHÔNG LỄ PHẬT - KHÔNG LỄ TỔ
Nêu:
- Lâm tế đến thăm tháp chủ. Tháp chủ nói: "Lễ Phật trước? hay lễ Tổ trước?" Sư
đáp: "Tổ và Phật đều không lễ". Tháp chủ hỏi: "Tổ, Phật với Trưởng lão có chuyện
oan nghiệt gì mà không lễ?". Sư phất tay áo đi ra.
Sư nói:
Được cởi đầu hổ,
Chớ vuốt râu hùm.
Tụng rằng:
Một phen phất áo bước thong dong,
Tháp chủ trừng trừng, giận chẳng xong.
Phật, Tổ rốt cùng đều chẳng lễ,
Ngọc ngân khe sớm, ánh thu trong.
HUỆ CHI
*
LỪA TRƯỚC NGỰA SAU
Nêu:
- Trần Tôn Giả hỏi một Thiền tăng từ đâu đến. Thiền tăng trừng mắt nhìn ông.
Sư nói:
Anh chàng la trước ngựa sau,
Nói thử một tiếng xem nào?
Tăng không đáp.
Tụng rằng:
Ngựa sau lừa trước đừng hùng hổ,
Lừa đá ngựa dày dễ biết đâu.
Đêm trước trong mơ người ướm hỏi,
Hai thây chôn dưới một mồ sâu.
TRÚC THIÊN
(Bản dịch THƯỢNG SĨ NGŨ LỤC)
*
THẦY LẠI TRÒ
Nêu:
- Cảnh Thông sau về trụ trì ở Hoắc-sơn. Có hành giả hỏi: "Thế nào là đại ý của
Phật pháp?". Sư bèn vái lạy. Hành giả hỏi: "Tại sao hòa thượng lại vái lại người
tục?" Sư đáp: "Ngươi há không nghe nói phải tôn trọng đệ tử hay sao?".
Sư nói:
- Vâng dạ với ứ hữ khác nhau là mấy!
Sư Cảnh Thông lại hỏi tiếp: "Ngươi ở đâu đến đây vậy?". Thiền tăng liền giơ tấm
tọa cụ lên. Sư nói: "Đầu rồng đuôi rắn".
Sư nói:
- Ánh trăng chẳng phải là sinh kế một nhà.
Vị hành giả lại hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư Cảnh Thông bèn đánh ông ta. Ông ta
cũng đánh lại. Sư nói: "Người đánh ta là có đạo lý. Ta đánh ngươi không có đạo
lý". Hành giả không đáp. Sư bèn bỏ ra.
Sư nói:
- Một bên là viên tướng đối xử tàn bạo với quân lính. Đúng là điều vô nghĩa. Một
bên là gà mái bắt chồn, chó con vờn hổ.
Tụng rằng:
Ba phen trnah bá chửa nên công,
Nghiệp đế truyền ra sáu nước xong.
Say đánh, nghìn gươm vừa hạ xuống,
Lại nghe muôn ngựa, tiếng thu rung.
ĐỖ VĂN HỶ
*
SƯ ĐÁNH NI
Nêu:
- Hòa thượng Đàm Không. Có một ni cô muốn mở đường thuyết pháp. Sư bảo: "Ni cô
là đàn bà không cần thuyết pháp". Ni cô hỏi: "Long nữ tám tuổi thành Phật, thì
đã có sao?". Sư đáp: "Long nữ có mười tám phép biến hóa, ni cô hãy biến hóa một
lần cho lão tăng xem nào?". Ni cô nói: "Biến hóa được chỉ là loài chồn tinh ranh
mãnh thôi". Sư bèn đánh đuổi ra.
Sư nói:
- Đúng thì đúng đấy, nhưng còn mắc kẹt ở một mối.
Tụng rằng:
Thương thay diệu pháp muốn bàn xa.
Nào phải xách làn, lại bỏ ra.
Chỉ muốn xua loài chồn quỷ quái,
Ba ba rồi lại đến ba ba.
HUỆ CHI