Cover Image
Đóng cuốn sách này Trần Khâm
(TranKham.htm)
đóng thư mục này Tác phẩm
Xem tài liệu Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Xem tài liệu Xuân Hiểu
Xem tài liệu Đề Cổ Châu Hương Thôn Tự
Xem tài liệu Động Thiên Hồ Thượng
Xem tài liệu Đăng Bảo Đài Sơn
Xem tài liệu Quỹ Trương Hiển Khanh Xuân Bính
Xem tài liệu Tống Bắc Sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
Xem tài liệu Xuân Cảnh
Xem tài liệu Nhị Nguyệt Thập Nhất Nhật Dạ
Xem tài liệu Khuê Oán
Xem tài liệu Mai
Xem tài liệu Xuân Vãn
Xem tài liệu Thiên Trường Vãn Vọng
Xem tài liệu Nguyệt
Xem tài liệu Đề Phổ Minh Tự Thuỷ Tạ
Xem tài liệu Vũ Lâm Thu Vãn
Xem tài liệu Lạng Châu Vãn Cảnh
Xem tài liệu Sơn Phòng Mạn Hứng
Xem tài liệu Tảo Mai
Xem tài liệu Thiên Trường Phủ
Xem tài liệu Tặng Bắc Sứ Lý Tư Diễn
Xem tài liệu Tây Chinh Đạo Trung
Xem tài liệu Họa Kiều Nguyên Lang Vận
Xem tài liệu Tống Bắc Sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
Xem tài liệu Đại Lãm Thần Quang Tự
Xem tài liệu Quân Tu Ký
Xem tài liệu Tức Sự
Xem tài liệu Trúc Nô Minh
Xem tài liệu Tán Tuệ Trung Thượng Sĩ
Xem tài liệu Hữu Cú Vô Cú
Xem tài liệu Sư Đệ Vấn Đáp
Xem tài liệu Cư Trần Lạc Đạo Phú
Xem tài liệu Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca
Xem tài liệu Thượng Sĩ Hành Trạng
Xem tài liệu Từ Nhập Cận Giải

THƯỢNG SĨ HÀNH TRẠNG

Thượng sĩ, Khâm minh từ thiện Thái vương chi đệ nhất tử. Nguyên Thành Thiên Cảm Hoàng thái hậu chí trưởng huynh. Sơ thái vương hoàng, Thái Tông Hoàng đế nghĩa chí, phong Hưng ninh vương dã. Thiếu, bẩm chất cao lượng, thuần ý tri danh. Tứ trấn hồng lộ quân dân. Lưỡng độ Bắc khấu phạm thuận, ư quốc hữu công. Lũy thiên hải đạo Thái bình trại tiết đô sứ.

Kỳ vi nhân dã, khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã. Bội huề chi tuế, khốc mộ không mòn, Tham Phúc đường Tiêu Dao Thiền sư, lĩnh chỉ, ủy tâm sự chi. Nhật dĩ thiền duyệt vi lạc, bất dĩ công danh ngại ưng. Nãi thoái cư tịnh bang chi phong ấp, cải vi vạn niên hương. Hỗn tục hòa quang, dữ vật vị thường xúc ngỗ. Cố năng thiệu long pháp chủng, du dịch sơ cơ. Nhân hoặc tham tầm, lược thị cương yếu, linh kỳ trụ tâm, tính nhậm hành tàng, đô vô danh thực.

Dụ Lăng cửu hưởng kỳ danh, khiển sứ diên chí khuyết hạ. Phàm đối ngự giai siêu tục chi đàm. Nhân suy vi sư huynh, tứ kim hiệu, tu nhập thị. Thái hậu hưởng dĩ thịnh soạn. Ngộ nhục đãn khiết. Thái hậu quái vấn: "A huynh đàm Thiền thực nhục, an đắc Phật da?" Thượng sĩ tiếu viết: "Phật tự Phật, huynh tự huynh. Huynh dã bất yếu tố Phật, Phật dã bất yếu tố huynh. Bất kiến cổ đức đạo: "Văn Thù tự Văn Thù, Giải thoát tự Giải thoát".

Cập thái hậu yếm thế. Dụ Lăng trai tăng vu cấm nội. Nhân khai đường, thứ thỉnh chư phương danh túc, các thuật đoản kệ dĩ trình kiến giải. Tẫn giai đà nê đới thủy, vị hữu sở liễu giả. Dụ Lăng dĩ quyển  thị Thượng sĩ. Thượng sĩ nhất bút câu hạ liễu, tự thuật tụng vân:

Kiến giải trình kiến giải,

Tự niết mục tác quái.

Niết mục tác quái liễu,

Minh minh thường tự tại.

Dụ Lăng tài kiến, tục phê chỉ vĩ vân:

Minh minh thường tự tại,

Diệc niết mục tác quái.

Kiến quái bất kiến quái,

Kỳ quái tất tự hoại.

Thượng sĩ thâm chỉ chi.

Đãi Dụ Lăng phất dự, Thượng sĩ dĩ thư vấn tật. Khai lục Dụ Lăng hồi kệ hữu vân:

Viêm viêm thử khí hãn thông thân,

Vị lằng cán ngã nương sinh khóa.

Thượng sĩ kiến kệ, ta thán cửu chỉ.

Cập Du lăng đại tiệm, bồ bặc phó khuyết, nhi giá dĩ tiên hỹ.

Nguyện ngã kim diệc mông kỳ đề hối dã.

Sơ ngã vị xuất gia thì, đinh Nguyên Thánh Mẫu hậu ưu lượng âm chi tế. Nhân thỉnh Thượng sĩ thụ Tuyết đậu, Dã hiên nhị lục, Ngã dĩ kỳ đại lục sinh vi hoặc, nãi tác đồng hài tâm. Thiết nhi vấn viết: "Chúng sinh dĩ ẩm tửu thực nhục vị nghiệp, như hà hoạch miễn tội báo?" Thượng sĩ hiểu dạ chi vân: "Thiết hữu nhân yên bối lập. Hốt hữu nhân vương tòng bỉ bối quá. Kỳ nhân bất giác hoặc trịch thập vật. Xúc ư vương thể. Kỳ nhân bố phủ? Thị vương sấn phủ? Như thị đương tri. Bỉ nhị bất tương can dã. Nãi thuật nhị kệ dĩ thị:

Vô thường chư pháp hành,

Tâm nghi tội tiện sinh.

Bản lại vô nhất vật,

Phi chủng diệc phi manh.

Hựu vân:

Nhật nhật đối cảnh thời,

Cảnh cảnh tòng tâm xuất.

Tâm cảnh bản lai vô,

Xuất xứ ba la mật.

Ngã tụng chỉ. Lương cửu viết: "Tuy nhiên như thị, tranh nại tội phúc dĩ chương".

Thượng sĩ phục dĩ kệ hiểu vân:

Nghiết thảo dữ nghiết nhục,

Chúng sinh các sở thục.

Xuân lai bách thảo sinh.

Hà xứ kiến tội phúc?

Ngã viết: "Chỉ như tịnh trì phạn hạnh. Công bất lãng thí. Hựu tác ma sinh?" Thượng sĩ tiếu nhi bất đáp. Ngã hựu thỉnh ích. Thượng sĩ phục thành lưỡng kệ. Ấn chi vân:

Trì giới kiêm nhẫn nhục,

Chiêu tội bất chiêu phúc.

Dục tri vô tội phúc,

Phi trì giới nhẫn nhục.

Hựu vân:

Như nhân thướng thụ thì,

An trung tự cầu nguy.

Như nhân bất thượng thụ,

Phong nguyệt hà sở vi?

Hoàn mật chúc ngã viết: "Vật thị phi nhân"

Ngã tri thượng sĩ môn phong cao tiếu.

Nhất nhật thỉnh vấn kỳ bản phân tông chỉ.

Thượng sĩ ứng viết:

"Phản quang tự kỷ bản phận sự. Bất tòng tha đắc". Ngã khoát nhiên đắc cá nhập lộ. Nãi khu y sự sư yên.

Y! Thượng sĩ thần vận nghiêm túc. Dung chỉ phương lăng. Kỳ đàm huyền thuyết diệu. Minh nguyệt phong thanh. Đương thời chư phương thạc đức, hoặc vị Thượng sĩ tín thức thâm minh. Nghịch hành thuận hành, thực vi nan trắc hỹ.

Hậu ư Dưỡng chân trang thị tật. Bất tại phòng ốc. Ư hư đường trung thiết nhất mộc sàng. Cát tường nhi ngọa, minh nhục thuận hóa. Gia nội thị thiếp thất thanh đỗng khốc. Thượng sĩ khai mục khởi tọa, sách thủy quán thủ thấu tất. Vi trách chi viết: "Phù sinh tử lý chi thường nhiên. An đắc bi luyến ưu ngô chân dã". Ngôn nhật, yêm nhiên thuận tịch. Xuân thu lục thập hữu nhị, tại Trùng Hưng thất niên Tân mão Tứ nguyệt sơ nhất nhật dã. Ngã thân hạnh kỳ đệ, hữu Thiêu hương báo ân tụng, bất lục.

Ngã truyền tự hậu, hoặc khai đường thuyết pháp chi nhật, tự tư tứ trọng, pháp nhũ nan báo. Mệnh họa công đồ kỳ chân nghi dĩ vi cung dưỡng. Tự thuật tán tụng, đề vân:

Giá lão cổ chùy,

Nhân nan danh miểu.

Lương hoàng khúc xích,

Thái đế đạc lịch.

Năng phường năng viên,

Năng hậu năng bạc.

Pháp hải độc nhãn,

Thiền lâm tam giác.

Dịch nghĩa

HÀNH TRẠNG CỦA THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG

Thượng sĩ là con trai đầu lòng của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương và anh cả của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Khi thái vương mất, Hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa, phong cho tước Hưng Ninh Vương.

Thuở nhỏ, Thượng sĩ bẩm tính thanh cao, nổi tiếng thuần hậu, được giao trấn giữ quân dân ở lộ Hồng.  Hai lần giặc Bắc xâm lược, có công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ vùng biển trại Thái Bình.

Về cốt cách, Thượng sĩ là người khí lượng thâm trầm, phong thần nhàn nhã. Ngay từ còn để chỏm đã hâm mộ cửa không. Đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Phúc Đường, lĩnh hội yếu chỉ, bèn dốc lòng thờ làm thầy. Ngày ngày chỉ lấy việc hứng thú với Thiền học làm vui, không hề bận tâm đến công danh sự nghiệp. Rồi người lui về sống ở phong ấp Tịnh Bang,  và đổi tên lại là hương Vạn Niên.

Thượng sĩ trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng, chứ không trái hẳn với người đời. Nhờ đó mà nối theo được hạt giống pháp, và dìu dắt được kẻ sơ cơ. Người nào tìm đến hỏi han, người cũng chỉ bảo cho biết điều cương yếu, khiến họ trụ được cái tâm, mặc tính hành tàng, không rơi vào danh hay thực. Vua Dụ Lăng mộ tiếng  người từ lâu nên sai sứ vời vào cửa khuyết. Phàm những lời hầu chuyện nhà vua đều là siêu tục, do đó vua suy tôn người  làm sư huynh và ban cho tên hiệu hiện nay.

Ngày kia, Thái hậu làm tiệc lớn đãi người. Người dự tiệc,  gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ, hỏi rằng: “Anh tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?”. Thượng sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh. Cô chẳng nghe các bậc cổ đức nói "Văn Thù là Văn thù, giải thoát là giải thoát" đó sao?”

Khi Thái hậu qua đời, vua Dụ Lăng thết cơm chay các vị sư ở cung cấm. Nhân khi vào tiệc lần lượt mời các bậc danh tăng bốn phương mỗi người làm một bài kệ ngắn để bày tỏ kiến giải của mình. Nhưng kết quả bài nào cũng “ngầu bùn sũng nước”, chưa tỏ ngộ được. Dụ Lăng bèn đem giấy đến cho Thượng sĩ. Thượng sĩ bèn viết một hơi  bài tụng tự thuật như sau:

Kiến giải bày kiến giải,

Như dụi mắt làm quái.

Dụi mắt làm quái rồi.

Sáng sủa thường tự tại.

Vua  Dụ Lăng đọc xong liền  viết tiếp:

Sáng sủa thường tự tại,

Cũng dụi mắt làm quái.

Thấy quái không thấy quái,

Quái kia liền tự hoại.

Thượng sĩ rất tâm phục bài kệ ấy.

Khi vua Dụ Lăng ốm, Thượng sĩ viết thư hỏi thăm. Vua mở ra xem, bài kệ trả lời của vua Dụ Lăng như sau:

Oi nồng hầm hập mồ hôi mướt,

Quần mẹ sinh ta thấm được đâu.

Thượng sĩ đọc bài kệ, than thở giây lâu. Đến khi vua Dụ Lăng trở bệnh nặng, Thượng sĩ tất tả tới cửa khuyết thì nhà vua đã quy tiên rồi.

Nay ta cũng nguyện đội ơn dạy dỗ của Thượng sĩ. Trước đây, khi ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân đó có đi thỉnh Thượng sĩ. Người trao cho hai bộ ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên. Ta cho rằng quá tầm thường, sinh ngờ vực, bèn làm ra vẻ ngây thơ hỏi Thượng sĩ rằng: “Chúng sinh quen cái nghiệp uống rượu và ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo?” Thượng sĩ liền giảng giải rằng: “Giả thử có một người đứng quay lưng lại, thình lình có nhà vua đi qua phía sau, người kia không biết, hoặc có ném vật gì vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng? Như thế thì biết rằng hai việc không liên quan gì đến nhau vậy.” Nói rồi Thượng sĩ đọc hai bài kệ:

Mọi pháp đều biến diệt,

Tâm ngờ tội liền sinh.

Xưa nay không một vật,

Mầm mống hỏi đâu thành.

 

Ngày ngày khi đối cảnh.

Cảnh cảnh từ tâm ra.

Cảnh tâm không có thật.

Chốn chốn ba la mật..

Ta lĩnh ý, giây lâu bèn nói: “Tuy là như thế, nhưng tội phúc đã rõ ràng thì làm thế nào?”.

Thượng sĩ lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:

Ăn thịt và ăn cỏ,

Tùy theo từng loài đó.

Xuân về cây cỏ sinh,

Họa phúc nào đâu có.

Ta nói: “Nếu vậy thì công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để làm gì?”.

Thượng sĩ cười mà không đáp. Ta cố nài. Thượng sĩ lại đọc tiếp hai bài kệ để ấn chứng cho ta:

Trì giới và nhẫn nhục,

Chuốc tội chẳng chuốc phúc.

Muốn biết không tội phúc,

Đừng trì giới nhẫn nhục.

 

Như khi người leo cây,

Đang yên tự tìm nguy.

Không trèo lên cây  nữa,

Trăng gió làm được gì.

Đoạn người dặn kín ta: “Chớ có bảo cho người không đáng bảo.” Vì vậy ta biết môn phong của Thượng sĩ thật là siêu việt.

Một ngày kia, ta hỏi người về  cái gốc của tôn chỉ Thiền. Thượng sĩ ứng khẩu đáp: “Hãy quay nhìn lại cái gốc của  mình chứ không tìm đâu khác được.” Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo, thờ làm thầy.

Ôi! Thượng sĩ là người thần thái nghiêm trang, cử chỉ đĩnh đạc. Khi người đàm luận về cái lẽ cao siêu huyền diệu thì như gió mát trăng thanh. Đương thời các bậc đạo cao đức trọng đâu đâu cũng đều tôn trọng, cho Thượng sĩ là người "tin sâu biết rõ", ngược xuôi thật khó mà lường được.

Sau, người nhuốm bệnh ở trang Dưỡng Chân, không ở phòng riêng, mà cho kê một chiếc giường gỗ giữa ngôi nhà trống, nằm theo thế cát tường, nhắm mắt mà tịch. Người hầu hạ và thê thiếp trong nhà khóc rống lên.  Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, gọi người lấy nước rửa tay, súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng: “Sống chết là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối chân tính của ta?” Dứt lời người êm thấm mà tịch. Bấy giờ là ngày mồng một tháng tư năm Tân Mão, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ bảy, hưởng thọ 62 tuổi.

Ta thân đến nhà làm lễ viếng và làm bài Thiêu hương báo ân tụng, nhưng không chép ra đây.

Sau khi nối đạo, những lúc lên đàn thuyết pháp, ta tự nghĩ có bốn điều ân nặng, sửa pháp khó đền, nên sai thợ vẽ chân dung của người để dâng cúng, và tự làm bài tụng như sau:

Đây bậc cổ chùy,

Đặt tên đâu dễ.

Thước góc Lương hoàng,

Mõ chuông Thái đế.

Vuông tròn  đều hay,

Mỏng dầy đủ vẻ.

Biển pháp một ngươi,

Rừng Thiền ba phía.

ĐỖ VĂN HỶ - HUỆ CHI