Cover Image
Đóng cuốn sách này Hồ Nguyên Trừng
(HoNguyenTrung.htm)
đóng thư mục này Tác phẩm
Xem tài liệu Nam Ông Mộng Lục Tự
Xem tài liệu Nghệ Vương Thủy Mạt
Xem tài liệu Trúc Lâm Thị Tịch
Xem tài liệu Tổ Linh Định Mệnh
Xem tài liệu Đức Tất Hữu Vị
Xem tài liệu Phụ Đức Trinh Minh
Xem tài liệu Văn Tang Khí Tuyệt
Xem tài liệu Văn Trinh Ngạch Trực
Xem tài liệu Y Thiện Dụng Tâm
Xem tài liệu Dũng Lực Thần Dị
Xem tài liệu Phu Thê Tử Tiết
Xem tài liệu Tăng Đạo Thần Thông
Xem tài liệu Tấu Chương Minh Nghiệm
Xem tài liệu Áp Lãng Chân Nhân
Xem tài liệu Minh Không Thần Dị
Xem tài liệu Nhập Mộng Liệu Bệnh
Xem tài liệu Ni Sư Đức Hạnh
Xem tài liệu Cảm Khích Đồ Hành
Xem tài liệu Điệp Tự Thi Cách
Xem tài liệu Thi Ý Thanh Tân
Xem tài liệu Trung Trực Thiện Chung
Xem tài liệu Thi Phúng Trung Gián
Xem tài liệu Thi Dụng Tiền Nhân Cảnh Cú
Xem tài liệu Thi Ngôn Tự Phụ
Xem tài liệu Thi Tửu Kinh Nhân
Xem tài liệu Thi Triệu Dú Khương
Xem tài liệu Thi Xứng Tướng Chức
Xem tài liệu Thi Thán Trí Quân
Xem tài liệu Quý Khách Tương Hoan
Xem tài liệu "Nam Ông Mộng Lục" Hậu Tự

NGHỆ VƯƠNG THỦY MẠT

An Nam Trần gia đệ bát đại vương húy Thúc Minh, Minh Vương đệ tam tử, thứ phi Lê thị sở sinh dã. Vi Vương tử thời, hiệu viết Cung Định, tính thuần hậu hiếu hữu, cung kiệm minh đoán, bác học kinh sử, bất hỉ thù hoa. Trần gia cựu lệ, hữu tử ký trưởng, tức sử thừa chính vị, nhi phụ thoái cư Bắc cung, dĩ Vương phụ tôn xưng, nhi đồng thinh chính, kỳ thực đãn truyền danh khí dĩ định hậu sự, bị thảng tốt nhĩ, sự giai thủ quyết ư phụ, tự vương vô dị ư Thế tử dã. Sơ, Minh Vương thứ trưởng tử ký lập, thị vị Hiếu Vương, nhi đích tử thủy sinh, trưởng viết Cung Túc, si muội bất nhiệm nhân sự. Thứ viết Lộc Tinh, niên vị xuất ấu nhi Hiến Vương một, thả vô tự, Lộc Tinh thừa phụ mệnh  kế lập, thị vi Dụ Vương. Thứ huynh Cung Tĩnh bái Thái úy, Cung Định bái Tả tướng. Cung Định trung tín thành xác, sự quân dữ thân, cẩn thận hào phát, nhân vô gián ngôn. Tiếp vật bất thân bất sơ, lâm chính vô cữu vô dự. Minh Vương khí thế, cư tang tam niên, Lệ bất can tiệp, phục trừ, y vô thái sắc, thực bất trọng vị, am la quả hải đồn ngư thị Nam phương trân vị, tự thử tuyệt bất đáo khẩu. Sự Dụ Vương thập hữu dư niên, Dụ Vương yểu nhi vô tự. Đại thần nghị viết: "Tả tướng thậm hiền, nhiên khuynh vô tự đệ chi nghĩa, nãi dĩ Quốc mẫu lệnh triệu lập Cung Túc tử Vong Danh vi vương. Thị thời,Cung Túc diệc dĩ tảo thế. Tử ký lập, dĩ chúng nghị, tiến bái Thái úy vi Thái tể, Tả Tướng vi Thái sư, Tả Tướng đệ Cung Tuyên vi Hữu Tướng. Cung Túc tử thiếu bất học, hiếu du hiệp. Nhân ngôn thiếp mẫu tư thông ngoại nhân Dương thị sở sinh, cố vi tông tộc tố sở khinh tiện. Ký tự vị, cư tang vô thích dung, cử động thất đa lễ, trạc đụng thân nặc tiểu nhân, miệt thị tổ phụ, khanh sĩ bất mãn. Cơ niên tông tộc vô trạng giả tương dữ tác loạn, ký bổ hoạch tru lục, liên lụy uổng sát thậm chúng. Hựu tiềm mưu tận khử Trần thị chi hữu danh mục giả, nãi sát Thái tể vu gia, Thái sư đạ độn. Hất đán tông tộc quan liêu tận khiết gia bôn, đô thành vị chi tiêu sách.Thái sư gián đạo đắc chí cùng biên Man động, ý dục tự tận, tả hữu tri chi  Động nhân lưu ngụ tuần nguyệt, nhân phả tri chi. Tông tộc quan liêu tương kế tầm chí. Cung Túc tử khiển quân truy bổ giả diệc tận quy đầu. Hữu Tướng xướng suất quần liêu khuyến thỉnh hoàn đô, dĩ thanh quân trắc. Thái sư ố yến tạ viết: "Chư quân tảo phản thành ấp, thiện hộ minh quân, dịch loạn trí trị, tôn an xã tắc, mỗ tử diệc thụ tứ. Mỗ đắc tội vu chúa, thoát thân đào thoán, đãi tễ sơn lâm hạnh hĩ, khởi cảm hữu tha. Chư quân hạnh vật tương bức". Chúng giai huyên hoa bất dĩ, tái tam khẩn thiết thướng thư thệ tử vô dịch, bức thỉnh tựu đồ, kiên dư xuất sơn. Viễn cận vân tập, hoan thanh chấn thiên. Tương chí đô tam bách lý, lão tướng Nguyễn Ngô Lang giáo Cung Túc tử xuất thủ thư tội kỷ từ vị, dĩ nhi ủng xuất nghênh tạ. Cung Túc tử phục địa thỉnh tội. Thái sư diệc phó địa, tương bão đỗng khốc tận ai, viết: "Chúa thượng hà chí như thử? Thần chi bất hạnh, khởi ý hữu kim nhật dã!". Hữu Tướng bạt kiếm lệ thanh viết: "Thiên mệnh thảo tội, tội nhân an đắc đa ngôn? tướng vương khởi khả dĩ hú hú chi nhân thất ư đại nghĩa?" Nãi sất tướng quân dịch khứ, xúc hữu tư bị lễ phụng Thái sư tức vương vị, phế Cung Túc tử vi Hôn Đức Công. Vương nhập thành yết miếu, thế khấp cáo viết: "Kim nhật chi sự phi thần ý sở cập. Dĩ xã tắc cố, bất đắc từ miễn. Hữu quai trung hiếu, tàm cụ tại hoài. Nguyện tự truất tôn vinh dĩ thiểu thù tố chí". Nãi hạ lệnh vật dụng vương xa dư, y phục khí vật hắc tất, vô dĩ kim bảo đan chu. Kỳ dư ẩm thực phục dụng y tiền tiết kiệm, chung thân chi tang một thế vô cải. Nãi cách loạn chính, suất cựu chương, minh thưởng phạt, dụng hiền lương. Dĩ kỷ tử bất tài nan kham đại sự, cơ niên sử đệ Hữu Tướng tự vị, nhi đồng thính chính, thị vi Duệ Vương.

Tiên thị, Chiêm Thành thừa quốc hán sác lai khấu. Duệ Vương tức vị tam niên, nãi thân phạt Chiêm Thành, bại tích bất phản, Vương dĩ Duệ Vương chi tử Hiện tự vị. Cửu chi, Chiêm thính gian thần, hành bất đạo, Vương ưu xã tắc khuynh phúc, thế khấp nhi phê chi, hiệu viết Linh Đức Công. Dĩ Vương tiểu tử Ngung nhập tự vị, thị vi Thuận Vương. Lịch thất tải, phụ vương hoăng. Thời Hồng Vũ nhị thập thất niên, Giáp tuất, táng vu An Sinh Sơn, thụy viết Nghệ.

Sơ Nghệ Vương vi nhi thời, bát cửu tuế thị Minh Vương, thích sàng thượng hữu trúc nô, thí mệnh vịnh chi, nãi chiêm khẩu ứng viết: "Hữu vĩ thử quân, trung không ngoại kính, tước nhữ vi nô, khủng thương nhân tính". Minh Vương dị chi, dương sát viết: "Thử bất thành ngữ, vật ký lục". Nãi giới Sư phó vật linh tác thi. Quân tử vị thiên mệnh hữu triệu, thùy năng ngự chi, hậu quả nhiên hĩ. Tức vị chi hậu, tận thủ huynh đệ tỉ muội tử nữ tôn diệt chi cô ấu giả cúc dưỡng cung trung, thị đồng kỷ xuất. Tông tộc viễn cận hàm bị ân liên. Hữu tao loạn hậu, bần lũ bất năng hôn giá giả, hôn giá chi; vị táng giả, táng chi; mạt phái chi lưu, mạc bất thu lục. Hấp nhiên thích lý áng nhược xuân hòa. Quốc nhân hóa chi, tục tiệm thuần hậu. Thử thổ chi quân tư kỳ hiền giả dư?

Dịch nghĩa

TRUYỆN NGHỆ VƯƠNG

Vua thứ tám nhà Trần ở nước An Nam húy Thúc Minh, là con thứ ba của Minh Vương và do người thứ phi họ Lê sinh ra. Lúc còn làm Vương tử, hiệu là Cung Định Vương tính tình thuần hậu, hiếu thảo, cung kính, cần kiệm, sáng suốt và quả đoán, học khắp kinh sử, không thích phù hoa. Theo lệ cũ nhà Trần, khi Vương tử đã lớn, vua cha bèn cho kế vị, còn bản thân mình thì lui về ở Bắc cung, tự xưng làm Vương phụ, cùng con coi việc triều chính, nhưng thực tế chỉ là truyền ngôi trên danh nghĩa để ổn định chuyện về sau, phòng khi vội vã, chứ mọi việc đều do vua cha quyết định hết, vua kế vị không khác gì một Thế tử vậy.

Nguyên trước kia, khi người con thứ của Minh Vương là Hiến Vương đã lên ngôi, thì những người con đích của Minh Vương mới sinh ra: con trưởng là Cung Túc Vương, ngờ nghệch không hiểu gì chuyện đời; con thứ là Lộc Tinh, tuổi còn thơ ấu thì Hiến Vương mất, lại không có con thừa kế, nên Lộc Tinh đã vâng mệnh vua cha lên nối ngôi, ấy là Dụ Vương. Phong cho hai người anh thứ là Cung Tĩnh  vương làm Thái úy, Cung Định Vương làm Tả Tướng quốc. Cung Định Vương là người trung hậu, thành thực, thờ vua thờ cha chu đáo, từng chân tơ sợi tóc không ai chê trách điều gì. Giao thiệp với người thì không thân lắm, cũng không sơ lắm; trước việc chính sự thì không có điều gì quá chê cũng không quá khen. Hồi Minh Vương qua đời. Cung Định Vương để tang ba năm, mắt không lúc nào ráo lệ. Đoạn tang, quần áo không sắm các thứ tơ lụa mầu mè; ăn không cần ngon; quả muỗm, cá hồng là những thức ăn quý ở phương Nam từ đấy tuyệt nhiên không tới miệng. Thờ Dụ Vương hơn mười năm. Khi Dụ Vương mất sớm không có con nối nghiệp, các quan đại thần bàn với nhau rằng: "Tả Tướng quốc rất tốt, nhưng không lý anh lại kế ngôi em", bèn theo lệnh Quốc mẫu đón con của Cung Túc Vương là Vong Danh về lập lên làm vua. Lúc bấy giờ, Cung Túc Vương cũng đã sớm mất. Sau khi con Cung Túc Vương lên làm vua, theo ý kiến quần thần, đã đưa Thái úy lên làm Thái tể, đưa Tả Tướng quốc lên làm Thái sư, và đưa em của Tả Tướng quốc là Cung Tuyên Vương lên làm Hữu Tướng quốc. Con Cung Túc Vương thuở nhỏ không chịu học, chỉ thích chơi bời lêu lổng. Người ta nói bà mẹ đã tư thông với một người họ Dương ngoài hoàng tộc rồi đẻ ra Vong Danh, cho nên Vong Danh thường bị những người trong hoàng tộc khinh rẻ. Sau khi kế vị, Vong Danh để tang cha, không tỏ vẻ đau buồn, cử chỉ phần nhiều thất lễ, cất nhắc bọn tiểu nhân thân cận, miệt thị cha ông, làm cho đám khanh sĩ bất mãn. Được một năm, những kẻ ngang ngạch trong hoàng tộc cùng nhau làm loạn, bị Vong Danh bắt được đem chém,  những người liên lụy bị chết oan trong vụ này rất đông, Vong Danh còn ngầm mưu khử sạch những người có tên tuổi trong họ Trần, bèn giết Thái tể ngay tại nhà, Thái sư đang đêm phải lẻn trốn. Đến sáng hôm sau, những người cùng làm quan trong hoàng tộc đều mang gia quyến chạy hết, đô thành vì vậy vắng tanh. Thái sư theo đường hẻm đến tận vùng man động xa xôi, ý muốn tự tận, nhưng những kẻ chung quanh đã ngăn lại. Người man động giữ Thái sư ở đây hàng tháng trời, ai cũng biết tiếng Thái sư. Các quan trong tông thất nối nhau tìm tới. Quân lính do con Cung Túc Vương sai đi lúng bắt Thái sư cũng đều chạy về phía Thái sư cả. Hữu Tướng quốc đốc thúc các quan khuyên mời Thái sư trở về Kinh để dẹp yên nơi cung điện. Thái sư sụt sùi thoái thác rằng: " Chư vị sớm ... trở lại Kinh thành, khéo giúp minh quân, chuyển loạn thành trị, đặt nước nhà vào thế yên ổn thì ta đến chết cũng vẫn chịu ơn. Ta có tội với Chúa thượng, thoát thân chạy trốn, chờ chết ở chốn núi rừng cũng đã là may, đâu dám có lòng này dạ nọ. Xin chư vị chớ nên cố ép ". Mọi người đều xôn xao, hết lượt này đến lượt khác khẩn khoản dâng thư, thề chết không đổi ý định, cố nài Thái sư lên đường, rồi dùng vai làm kiệu đưa Thái sư xuống núi. Người gần xa tụ tập đông nghịt, tiếng hoan hô vang động cả một góc trời. Khi về cách đô thành ba trăm dặm, lão tướng Nguyễn Ngô Lang bảo con Cung Túc Vương tự tay việt tội trạng mình và xin thoái vị, xong mang ra để đón xin lỗi Thái sư. Con Cung Túc Vương phục xuống đất xin tha tội. Thái sư cũng xoài ra đất ôm con Cung Túc Vương khóc lóc hết sức thảm thiết mà rằng: "Làm sao Chúa thượng phải đến nông  nỗi thế? Thật không may cho thần, nào ngờ có ngày hôm nay!". Hữu Tướng quốc tuốt kiếm thét lớn rằng: "Trời sai trị tội, kẻ có tội sao được lắm lời? Thái sư lẽ nào lại vì chút lòng nhân huệ mà bỏ nghĩa lớn?". Bèn quát bảo quân tướng lôi con Cung Túc Vương đi, giục người có trách nhiệm chuẩn bị làm lễ rước Thái sư lên ngôi, phế con Cung Túc Vương làm Hôn Đức Công. Vua vào thành yết tông miếu, vừa khóc vừa khấn cáo rằng: "Sự việc hôm nay thật ngoài ý muốn của thần. Vì nên xã tắc, thần không thể từ chối. Trái lẽ trung hiếu, thẹn sợ trong lòng. Nguyện từ bỏ sự tôn quý và vinh dự của thần để thực hiện phần nào chí cũ". Bèn hạ lệnh không được dùng xe kiệu của vua, quần áo đồ vật đều sơn đen, không dùng châu báu vàng son. Các thức ăn mặc tiêu dùng đều phải tiết kiệm như trước, suốt đời mang tang lễ không chút thay đổi. Bèn chuyển loạn thành trị, noi theo nền nếp cũ, thưởng phạt công minh, dùng kẻ hiền lương. Bởi thấy con mình không có tài năng, khó đương việc lớn, nên được một năm, vua đã cho em là Hữu Tướng quố kế vị để cùng coi việc triều chính, đó là Duệ Vương.

Trước đó, Chiêm Thành thừa cơ trong nước có hiềm khích, đã nhiều lần đến cướp phá. Duệ Vương lên ngôi được ba năm, thân chinh đi đánh Chiêm Thành, nhưng bị thua to, không trở về. Nghệ Vương cho con của Duệ Vương là Hiện kế vị. Ít lâu sau, Hiện nghe lời gian thần làm nhiều việc vô đạo, Nhgệ Vương lo nước nhà nghiêng đổ, mới than khóc mà phế đi, cho gọi là Linh Đức Công. Nghệ Vương lấy con út của mình là Ngung vào kế vị đó là Thuận Vương. Được bảy năm, vua cha mất. Bấy giờ là năm Giáp tuất, niên hiệu Hồng Vũ thứ hai mương bảy. Chôn ở núi Yên Sinh, thụy là Nghệ.

Xưa kia, hồi Nghệ Vương còn nhỏ, tám chín tuổi theo hầu Minh Vương, vừa lúc trên giường có chiếc chiếu trúc, Minh Vương bảo vịnh thử, Nghệ Vương ứng khẩu đọc rằng: "Có nàng giỏi giang, trong rỗng ngoài cứng; bắt làm đầy tớ, e chạm nhân tình". Minh Vương rất lấy làm lạ, nhưng vờ mắng rằng: "Chả ra lời lẽ gì, đừng ghi chép lại". Bèn dặn thầy dạy đừng bảo làm thơ nữa. Người quân tử nói "mệnh trời có dấu hiệu, không ai ngăn cản nổi", về sau quả nhiên như vậy. Sau khi lên ngôi, Nghệ Vương đã nhặt hết những đứa trẻ côi cút trong đám con cháu của anh chị em mình đưa vào cung nuôi nấng, coi hệt như con cái mình đẻ ra. Người trong giòng họ xa gần đều được yêu thương đùm bọc. Sau cơn loạn lạc, người nào nghèo khổ không thể cưới xin được, thì lấy vợ gả chồng cho họ; người nào chứa được chôn cất, thì chôn cất cho họ; đến cả những điều vặt vãnh chi tiết, không có cái gì là không thu nhặt chép sao. Xóm giềng hòa hợp, đầm ấm như tiết mùa xuân. Người trong nước được cảm hóa, phong tục dần dần trở nên thuần hậu. Vua ở đất này cũng có người tốt đến thế ư?

TUẤN NGHI