Cover Image
Đóng cuốn sách này NGUYỄN CÔNG BẬT
(NguyenCongBat.htm)
đóng thư mục này Tác phẩm
Xem tài liệu Đại Việt Quốc Đương Gia Đệ Tứ Đế Sùng-Thiện Diên-Linh Tháp Bi

ĐẠI VIỆT QUỐC ĐƯƠNG GIA ĐỆ TỨ ĐẾ SÙNG-THIỆN DIÊN-LINH THÁP BI

Long-đội sơn tự  Sùng-thiện Diên-linh bảo tháp bi

Ngự thư phi bạch bi ngạch.

Phù diệu thể huyền tịch, linh quang hề, phi trung phi ngoại, trác nhĩ ư ngũ thái chi sơ; đại dụng phồn tư, hạo bác hề, duy hình duy hiển, sàm nhiên ư nhất hư chi lý. Vật triệu trẫm khả trắc; mị ảnh tích khả cầu. Bao thiên nhưỡng quảng đại chi dung, cự năng tham cận; hỗn nhật nguyệt quang hoa chi thái, ninh giả tầm quan. Tuy cán vận tạo hóa khu cơ, bỉ đoan nhiên tại; túng thôi đãng âm dương thư dự, bí yếu thiên u. Khởi phi huyền tịch dư? Thượng hạ chi kỷ cương ký lập; diên thực chi quy mô duật hưng. Tứ tự hành nhi ngọc chúc điều; thất chính tề nhi toàn cơ vận. Tạp đạp vạn loại; tùng toả chúng duyên. Sinh sinh do thị trứ danh; xuy xuy dĩ chi toại tính. Bất viết phồn tư hồ? Như thử tấn cơ hoằng biện; nguyên thủy yếu chung. Bất diệc nan tai!

Duy ngã Đại hùng thị, trung cổ ứng vận; Tây kiền hiển linh. Hoàn tam thiên chi uy nghi; hưng tứ bát chi diệu tướng. Thập hiệu bị cụ; bách phúc trang nghiêm. Cứu bỉ tính vi; minh tư thuần. Điệu quần sinh chi tuý thức; ố tứ loại chi mê chân. Y trung vong bảo nhi bất tự tri; kiệp lý tàng xà diệc phi cảnh ngộ. Do thị thiết Đề hồ chi diệu giáo; ốc tích tuế chi cơ hư. Nhiên xán lạn chi minh đăng; chúc di niên chi hôn ám. Tì lãng tâm chi thiên chân đắc định; khiển vọng tính chi bồng hạnh lập an. Cố tam giới quy y; thập phương hồi hướng. Trụ thần thế thất thập cửu tuế; quyền thiết pháp bát vạn bát vạn thiên môn. Tích vị ký hợp trần; thân ninh tùy tịch huyễn. Toại nãi kim dung yểm sắc ư song thụ; bạch hồng đằng diệu ư trùng thiên. Đâu la miên khỏa ký thần tư; tử lan cao nhuận kỳ hương thể. Tín tâm luyến mộ phụng chiên đàn nhi tác tân; giác tính linh thông, ứng đồ duy hỏa hóa. Đồ tì yên liễu, xá lị ngưng thành. Loại minh nguyệt chi sản bạng thai; tiếu lộ châu chi oánh kim chưởng. Hoặc ngũ thái nhi chiến diệu, hoặc cửu sắc nhi trừng triệt. Doanh bàn mãn hộc; dị tục siêu phàm. Nhân chủ Long vương; âm gian thiên thượng. Thần tất tháo tập; giác tướng phân biểu. Trân tích dĩ bảo hàm trọng trữ; thận thủ tắc đề nhận kinh tuần. Các trạch kỳ an; mị thường quyết sở. Hoặc Hương-sơn đính thượng, nhân thế trần trung; hoặc triều dã không gian, thương minh cung lý. Đổ ba cạnh Phạn, thần vật cao tàng; duyên cổ xử kim, lịch truyền võng thế. Hưng công kế tích, bất diệt thịnh dư?

Cung duy Lý triều thánh hiến thể đạo, thánh văn thần vũ, ánh cách dân vật, vạn linh chiếu ứng, vĩnh long nguyên hóa, thông minh quảng vận, nhân tri ý nghĩa, thuần thành minh hiếu hoàng đế bệ hạ, kham dư chung túy; nhật nguyệt trừ tinh. Khánh triệu tiên phù; hưu trưng dự khải. Phụ hoàng nhập mộng, thù bang hiến tuyết tượng lục nha; mẫu hậu hữu thần, phi các cấm hoàng long ngũ thái. Tư tắc bệ hạ nhập thai chi triệu dã.

Cảnh tinh oánh hiện, ngân hà ứng mi nguyệt chi quang; khánh vân hiểu phi, đạn bệ thư sương tiêu chi thái. Hỉ khí nga đằng ư tiêu hán; dị hương tán ái ư cung vi. Thập nguyệt xử thai nhi chu kỳ; tam dương kiến dần nhi đản thánh. Tư tắc bệ hạ giáng đản chi trưng dã.

Điệu tuế nhi phủ đăng đại bảo, thiên địa tương phù; thắng y nhi thống ngự hoàn khu, nhân thần hàm tán. Long tình phượng mục; ngọc khiết băng tư.Mâu trừng nhi thanh bạch phân minh, dị trùng đồng ư Thuấn đế; nhĩ thọ nhi luân quách tu quảng, xuy tam lậu ư Hạ vương. Hình kỳ nhi trường; túc phương nhi hậu. Ngọc lý hàm kỳ nhuận; châu đình diệu kỳ hoa. Thành thiên tải chí anh minh; quán bách vương chi kỳ tú. Tư tắc bệ hạ thiên biểu chi đoan nghiêm dã.

Huệ chu động thực; trí mẫn phong vân. Nội điển kinh thư, tinh cùng huyền yếu; ngoại quyền pháp thuật, tổng tất chỉ quy. Đào kim thạch chi anh từ, quang thòn đẩu cực; trứ điện tháp chi gia hiệu, huyền chiếu cổ kim. Tinh phi bạch dĩ thông thần; vận ngự hào chi tuyệt diệu. Long dược phượng tường chi thế, pháp tòng ngọc thủ; loan hồi thước phản chi hình, thể xuất thần tâm. Điêu kim bài dĩ trí Phạn cung; thuyên thúy châu dĩ di đạo quán. Thi tứ toát đào quân vạn hóa; nhạc phổ hòa Đường Phạn đồng âm. Thư cùng cứu ư huyền cơ; xạ chí tinh ư diệu thuật. Tư tắc bệ hạ bác thông ư tài nghệ dả.

Trung thu thanh cảnh; vạn vụ hưu thời. Hiếu thành triển nhi khiết trân tu; thịnh lễ trần nhi từ thánh khảo. Phục ư tam đán; đại khải giá nghi. Thừa ngọc liễn nhi xuất cửu trùng; trắc kim lộ nhi trì hoàng đạo. Trĩ phiến ủng ư lưỡng tế; ngàn võng hộ ư tứ vi. Hoàng cái phù không; thái kỳ tuệ nhật. Tin trì liễu mạch; đẩu chuyển hoa cù. Hướng Trường-lô chi bích xuyên; ngự Linh-quang chi bảo điện. Thiên sưu nghi trung lưu điện tốc; vạn cổ nhi dật thủy lôi minh. Ngọc lan yến phương bá chi hội đồng; đan bệ tấu tiên lại chi chương biểu. Ba tâm đãng dạng, phù kim ngao dĩ phụ tam phong; thủy diện di do, lộ giáp văn nhi phư tứ túc. Chuyển mâu miết ngạn; nhạ khẩu phún tân. Hướng miện lưu nhi ngưỡng quan; đối đương không nhi phủ sát. Vọng ta nga chi tiếu bích; tấu dương dật chi vân thiều. Động hộ tranh khai; thần tiên cạnh xuất. Cái thiên thượng chi nghê thái; khởi trần thế chi kiều tư. Kiều tiêm thủ dĩ hiến Hồi phong; tần thúy mi nhi ca hưu vận. Trân cầm tác đội, tận xuất vũ dĩ xu thương; thụy lộc thành quần, tự trước hàng nhi dũng dược. Cập kim ô Tây chiếu; bảo lộ tương hoàn. Đáo như để chi đồ trung; lưu quảng thiên chi cảnh ngoại. Hướng sùng đài nhi hồi lục địa; bội bị phụ dĩ tải tam sơn. Đối chu bàn nhi chiêu đầu; tương an thân nhi duệ vĩ. Cưu quá vân nhi liêu lượng; hổ hạ đắng nhi sinh ninh. Phấn tấn hùng uy; phệ khiết tiểu thú. Hội thượng làm đệ tử; trì địch vũ chu can. Lệ thanh khu dĩ tiến đế tiền; trúc trường phố nhi thủ lạp giới. Loan hồ xu xạ; bạt kiếm trì tuần. Nhân phấn dũng ư phiến thần; sĩ tranh nghênh ư đương nhật. Hoài lân quốc nhi huề kỳ đề ấu; lai liệt thổ nhi đăng duệ duyên tường. Chúc mục quan quang; kiều tâm nguyện kiến. Xứ xứ chi tận trang la ỷ; niên niên chi tam nhật hoan ngu. Tê nhân thế ư Hồ-thiên; trí triệu dân ư lạc quốc. Tư tắc bệ hạ bát lãm nhi tân chế kim ngao dã.

Hiển khánh mưu chi thần diệu; chế ngự bách chi tinh kỳ. Trước trạng thiết liên hạm tráng hùng; lập cách tạo thiên sưu tú lệ. Giá trùng tiêu chi lâu các; sùng nguy tiếu chi thiềm doanh. Trung nghiêm phủ toạ di cao, khoát thông duệ minh chi hà giám; bàng triển tú lệ quang xán, quảng liệt tần thể chi thân bồi. Khuynh vạn bảo dĩ nghiêm trang; bị tam cung chi phòng ốc. Trung lưu hiểu dạng, nghi thần thổ dĩ hoành ba; ổi ngạn vãn đình, nghĩ ngao kình chi tủng hán.Tư tắc bệ hạ tân chế độ chi xảo dã.

Quảng vận thần công; hoằng suy thánh đoán. Tinh tu thắng sự; cần chí lương duyên. Kiến quảng chiêu chi đăng đài, hướng đoan môn chi đình thượng. Trung tiêu nhất cán; ngoại thiết thất tằng. Cù cung xuất nhi bổng kim liên; phùng sa lung nhi hộ lan diệm. Uẩn cơ vi ư địa hạ, viên chuyển như luân; thước quang thể ư thiên trung, oánh hoàng tự nhật. Phục hữu nghiêm chương bảo thánh; kim điện bảo tùng. Tựu duệ ý trang thành; tọa kim sắc tương đấu. Trạng tả linh văn, hình phò kỳ lệ. Hựu hữu hoa lâu lưỡng tọa; quản dĩ kim chung. Khắc Thích tử nhi thể quải điền y; vận u cơ nhi bá chùy như kích. Văn minh sao nhi túc nghi chuyển diện; đổ anh khánh nhi khể thủ hồi cung. Xuất tự duệ mưu; uyển như động tĩnh. Phục hữu diệu thất bảo chi tụy đổ; tác nhất hàng nhi hỗ bài. Đoan trung tắc hoàng kim nhất phong, toạ Đa bảo Như lai chi thụy tướng; liệt kỷ tằng pháp giá chi chân hình. Thiềm quang thước thần húc chi huy; ngõa sắc khai bích vân chi thái. Kỳ thứ, tắc bạch ngân nhị tòa, tả trí A-di-đà chi chân dung; hữu trữ diệu sắc thân chi túy chất. Tiếu thư hùng thế, kiều phấn phi manh. Linh lung khi thụy tuyết chi dung; xán lạn đoạt thu thiềm chi khiết. Cánh thứ, tắc điểu văn nhị tòa. Tả an Quảng bác thân chi từ nhan; hữu bị Ly bố úy chi diệu tướng. Ký dĩ viên cao các; hựu cánh khởi nguy tằng. Cái điệt tố quỳnh; bích thuyên long trạng. Hựu thứ, tắc tượng xỉ nhị tòa. Tả hy Cam lộ vương chi nghi; hữu nghiễm Bảo thắng phật chi tụy mục. Thiết tha tố chất; sùng giá sương doanh. Phỉ lăng điêu duyên ngọc chi anh; gián khích tiễn quần tê chi giác. Kiêm tinh chế ký từ chi mỹ; các thuyên vu liên tọa chi bàng. Phi tuyết tinh thành; vĩnh chiêu quyết hậu. Nhi hựu tả cửu thiên dĩ ngũ sắc; khắc tứ trụ dĩ song huyền. Duyên biên nhi oánh điểm thiên đăng; lưỡng diệu nhi luyện trang kim thái. Khả vị tuyệt cổ kim chi chế độ; siêu tạo hóa chi sinh thành. Khuynh thiên hạ chi ung hòa, dạ vi trú thưởng; sướng thế gian chi tâm mục, lão hoán đồng nhan.Tư tắc bệ hạ xảo chế thắng duyên chi công dã.

Tích sùng Hoàng giác; đốc mộ thắng nhân. Hướng Tây-cấm chi danh viên; xưởng Diên-hựu chi quang tự. Tích tòng tiền chi cựu chế; xuất thánh ý chi tân mưu. Tạc Linh-chiểu chi phương trì; nhi trì trung dũng nhất thạch cán. Cán thượng phách thiên diệp liên hoa; hoa thuợng nhi kiều an cam điện. Điện trung tọa kim tướng chi năng nhân. Trì chi ngoại chu nhiễu, họa lang, hoàn lang chi ngoại hưu sơ Bích-trì, mỗi giá phi kiều dĩ thông chi. Tiền kiều chi đình, tả hữu Phạn lưu li bảo tháp. Dĩ nguyệt chi sóc đán; dĩ niên chi du xuân.Thâu thừa ngọc liễn; lai khải thanh diên. Hoa hương thiết kỳ tộ chi nghi; bồn quán trần dục Phật chi thức. Trang tinh cấm chi tướng ư ngũ chúng, hoặc thát lộ tiến thoái dĩ vi dung; tác thiên vương chi đội ư tứ phương, tề kinh khi bồi hồi nhi hiến vũ. Tinh cần mị đãi; kính phụng di thần. Nhi huyền tạo linh thông, hàm giai phù hựu. Tư tắc bệ hạ chế Phạn sái dĩ kỳ phúc thọ dã.

Thượng phương thùy củng; hạ chính bật lân. Ngẫu biên lại chi canh thường; thành quai vi chi hữu hấn. Tinh trì ngự địch; lôi phấn tỏa uy. Ung-châu quân chi chúng ức thiên, hội hỹ do phong quyển ế; Như-nguyệt giang chi sư bách vạn, hoán nhiên nhược nhật tiêu băng. Tại khổn ngoại chi tướng tự thi; khởi thần trung chi mưu sở quyết. Kỵ hậu trí hoàng cực ư mục thanh; tê sinh dân ư phú thọ. Phiến nhân phong dĩ hóa suất; thi huệ trạch dĩ bàng tuyên. Xạ-chế Hoàn vương, từ cung thất nhi xu đình vi thứ; La-vu quốc chủ, khi sơn hà nhi nghệ khuyết xưng thần. Đốc ý mộ chiên; khuynh hoài tựu nhật. Khoảng giả Ma-sa man liệu, thị hiểm giang sơn. Lang khoáng sinh tâm; bất tuần hoàng hóa. Thánh tắc nhất nộ; đại giá khải hành. Mãnh tướng vân tùy; mưu thần vũ hội. Bố sư lữ ư hoang dã; tập hiêu cánh chi ngoan dân. Tận tù trưởng thành cầm; đại khôi cừ phu lỗ. Kỳ dư tắc huyết cao thảo mãng; nhục ủy lâm tuyền. Túng hùng hổ nhi ách thử hề nan; phiên cự thạch nhi toái noãn hà dị? Tư tắc bệ hạ diệu vũ thông quy dã.

Kiềm lê hy hợp; triệu thứ thanh di. Xuân cận phụng tham; thu triều thuật chức. Hội phương quốc chư hầu nhi yến thưởng; cấu chúng tiên tam cấp chi bảo đài. Ngân ngõa điệt nhi quang chiếu khung mân; kim liên lũy nhi phô trần bảo tướng. Thượng đính tắc linh cầm tủng lập; tứ lăng tắc lân trưởng cạnh nhương. Cái sức thất trân; đới trang bách bảo. Thượng giai chí vị nhi thánh minh đoan củng; trung cấp hạ đẳng nhi tiên kỹ hồi hoàn. Đình liệt nhạc quan, tịch giai đạo dược. Phấn thiên tài nhi thành diệu khúc; ủy quần tích nhi viễn hoàn phong. Lăng không nhi thanh át hành vân; hòa quản nhi hưởng tư duệ ốc. Tư tắc bệ hạ tu văn chí đức dã.

Vi thiên địa chị chân chủ; cứu tạo hóa chi u cơ. Vận trí biến thông; hiển mưu sung tắc. Tinh ngoại phương chi âm hưởng; dịch chư kỹ chi yếu đoan. Tác diệu vũ chi tuyệt luân; thị xương kỳ chi đồng lạc. Phục chế giáng vân tiên tử, nhi ca thanh liêu lượng, tán triết hậu chi nguyên công; xuất liên bảo vụ nhi nhược chất biên thiên, khánh tâm nhân chi mĩ hóa.Tư tắc bệ hạ chi diệu toán dã.

Đức đồng cao hậu tắc ngũ vĩ chiếu phù; huệ cập phi tiềm, tắc vạn linh tiến chỉ. Thần long nhị cửu, quang phục ư bảo điện quỳnh đan.; tuyết tượng nhất thiên, hộ trình ư dao trì cấm ngự. Chương đại bảo chi khả cửu; phù thuần hỗ chi ưu long. Cố lâm hiển kỳ tư; thiên chiêu linh trạng. Phục hiện thần tượng nhất đầu. Hình chất nhi khôi ngô dị đẳng; tị ngạch nhi diệu hiển thần quang. Nghiệm văn thái nhi thanh tịnh hữu trừ; bẩm thông minh nhi chiếu chương vô ngoại. Ngự hiệu viết: "Siêu quần thần tượng". Ưu đàm biền phương; xá lị ngọc hiện. Thảo mộc hiệu chỉ, thần vật thư quang.Yết tứ mĩ vô cùng; thị thùy hồng hữu khánh. Linh thảo lưỡng hiện; hạo lộc lục trăn. Tố chương độc lai; huyền thư song chí. Chiêu trường thừa thượng đế chi mệnh; khế vĩnh bảo mấn thiên chi hưu. Phân củ trình nghiên; biền biều hiển lệ. Quy ngũ sắc nhi thiên điểm; liên lưỡng kính nhi nhất hình. Trạch cập uyên tuyền; vật phương tiến thụy. Cảm lê manh chi ninh bật; chiêu xã tắc chi ích long. Nguyệt trùng luân ư tằng tiêu; kim thái phát ư u giản. Minh chiếu lâm ư hữu tiệt; chương tể đoán ư vô ngân. Cố thiên tượng hiệu tường; u nguyên tiến chỉ. Tử tân cô cán; phồn trưởng linh miêu. Màu chúng quốc dĩ vệ trung bang; loại phổ thiên nhi phù nguyên thủ. Thần quang cửu thập; tiết giới ngũ dương. Thử biến sương mao; tùng sinh yển thanh; khế triệu dân chi tập mục. Quỳnh cưu bạch tước nhi lũ tập; tố duật ngọc long nhi thủy trình. Thư khiết tịnh chi dung nghi, hiển duy tinh duy nhất; cách chân thường chi cựu chất, hiệu khắc khoan khắc nhân. Chiêu dao luân tinh bạch ký sinh; cự nhu mao tinh vinh ngưu hiện. Quần nhạn tập nhi quan quang suất hạ; mãnh hổ hoạt nhi hiển thế úy uy. Phượng tử thành song; thụy tuyết thâm tích. Phiêu tố anh chi doanh xích; trưng nhất thế chi tam đăng. Xước dị trạng chi cửu bao; trước thành hàng chi quần lộ. Bạch từ ô chi cạnh chí, hạo hộc dự trĩ tranh tường. Chương phản bộ chi tinh cần; cản chí hiếu chi thuần hậu. Niệm kinh chung trục nhi phi sất; chúc thánh vạn tuế nhi định thường. Tân lang hàm châu; dương chi sái ngọc. Nhiễu cửu long chi bảo, trinh đoạt hảo châu; trường phồn kỳ chi tư, tường siêu dị mẫu.

Ý phù thừa thiên địa hồng hưu; thiệu tổ tông cảnh mệnh. Ngũ thập dư niên nhi thống hóa; bách thiên chu hạ dĩ khâm uy. Vũ dương hợp thời; tinh thần thuận độ. Thường niệm, nông vi thủy bản; chính tất thượng tư. Tuy tuế tuế cung hành; ý tư tư bất đãi. Thời Hội Tường Đại Khánh cửu niên hạ ngũ nguyệt nhật. Giá phi tiên chi thượng liễn, dạng diệu bảo chi long chu. Nhật lệ ba bình; triều hồi yên liễn. Lịch Hà-lô chi trường phái; kiến Long-lĩnh chi lâm nhai. Tuy tủng thế lân tuân; đáo đính đoan bình thản. Sử nghĩ sưu ngạn dĩ duy lãm; chiếu hộ giá chi quần liêu. Nhi vị chi viết:" Trẫm dĩ tư sơn nhi kinh doanh Phạn phúc khả đắc chi hồ?". Tả hữu tương suất nhi tấu viết: "Văn hương lão sở truyền: tư sơ thường dĩ xuân phẩm đán đàm, hằng vũ dĩ nhuận kiềm lê. Nghi khả thi công, sùng thành thiện quả". Kim thỉnh thự kỳ sơn viết Long-đội. Thánh tinh doãn khả, nãi mệnh nhật giả, dĩ biện phương hướng. Diện đối Kinh-giang, phong tĩnh nhi trường thư bích luyện; bối phân Điệp tụ, vũ tiêu nhi nùng đoạn ích quang. Hữu khống bình nguyên, vọng kiền hưng chi cổ tiệm; tả duyên lưu khoái, hoàn Hán thủy dĩ triều tông. Tái chiếu công thâu; trụng phân thằng mặc.Thi tài dĩ minh công đức, cố dân tư kiệt lực lâm hành; vận tài dĩ tận thần kỳ, cưu công xảo thành thành quần tượng. Lũ trinh mân nhi tác đẩu; trác thúy vũ dĩ vi doanh. Dũng sốc Hán chi thập tam tằng; khải thùa phong chi tứ thập hộ. Bích thuyên long quật; giác quải kim linh. Thượng tầng giam xá lị lang hàm, trữ phóng tường quang ư thịnh thế; tuyệt đính trí bổng bàn tiên khách, trường thừa ngọc lộ ư tình thiên. Hạ tầng phân bát tướng khôi ngô; ủng lập tắc thần nhân trượng kiếm. Kỳ trung tọa Đa-bảo Như-lai chi thụy tướng dã. Hoằng thâm nguyện lực; ninh dẫn toàn thân. Thính liên kệ nhi tất sậu linh uy; dữ già văn nhi bán phân dao tọa. Quải châu phán chi hoảng diệu; huyền bảo cái chi linh lung. Giai đình thăng giáng nhi hữu sai; lang vũ tả hữu nhi song dực. Thứ bỉ, tả kiến tứ giác cung, hàm song bàn nhi trấn địa; phụ bát tướng dĩ triều thiên. Dương khí khái ư danh sơn; bá thánh công ư hậu duệ, Hữu Phạn, phương kiều khám thất, trứ dĩ Tân đầu hòa thượng, phóng vu Ma-lê sơn; thụ chức lũy ư Như lai, vị chúng sinh nhi chứng phúc. Hạ cấp, tiền cấu Lăng-hán các, huyền Thú-sơn chi đỉnh khí, mi bích hải chi kình chùy. Quá thời vạn dật ư thiên trình; văn xứ kiếm đình ư khổ thú. Hoàn viên dung dĩ nghiêm hộ; trữ hiên vũ dĩ phô trang. Tạo kiều quang khải kỳ thông cù; nghệ tùng thành hàng ư lưỡng giới. Kiệt tinh thành dĩ sùng diệu quả, hy diên lịch số dĩ trường tân; cùng quỷ chế dĩ điệp nguy tằng, ký ích duệ linh chi di viễn. Cố ngự đề viết: Sùng-thiện Diên-linh tháp. Kỳ tháp kinh thủy ư Hội Tuờng Đại Khánh cửu niên chi hạ; tất công ư Thiên Phù Duệ Vũ nhị niên chi thu. Nhân thời khích nhi hưng doanh; đãi phong đăng nhi thiết lập. Lịch ư tam canh tứ nẫm nhi hậu hoàn yên. Cập khánh thành dã, sắc phụng thường dĩ chỉnh giá; cảm phong bá dĩ thanh trần. Trầm đàn vụ chức ư khê sơn; chàng phan hà lạn ư nhai đạo. Cổ chung huyên phí; nạo khánh banh oanh. Tiền đạo Tam bảo vân xa; hậu triển nhất nhân kim lộ. Khuynh lục cung chu thúy; lai vạn quốc kỳ đồng. Hoa vũ tiền hoành; Thứu-đài trung xưởng. Hội phương bào chi khiết hạnh; diễn giác đế chi chân thuyên. Anh thánh ngưng lưu, trữ kệ chung nhi kiều thành khể tảng; tiên cơ liễm duệ, thính trục tận nhi hiến vũ cung tô. Tụng tuyết lạp chi hương trai, ốc sung cơ lữ; tán tuyền lưu chi viên bảo, chu chẩn cùng manh. U hiển hàm trăn; thiên long tất tháo. Dĩ tối thượng công lực; vô biên phúc điền. Ích tán hoàng cương, đẳng viên phương nhi cộng vĩnh; tương kỳ bảo vận, dữ nhật nguyệt nhi trường thanh. Tảo đản nguyên thần, vĩnh ưng lịch số. Kỳ bản chi bách thế; ký xã tắc ức linh. Thảo yển đa phương; quỳ khuynh vạn quốc. Thần dân ái đới; tổ khảo khuông tì. Thần đạo minh phù; thiên nhân hàm tán.

Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông hoàng đế, ký định hoàng doanh, đạp thăng tiêu hán, bằng tư thắng lợi vĩnh nhiếp kim liên; Hoàng tỷ Phù thánh Linh Nhân hoàng hậu, yếm cư nhân thế, cao ngự yên hà, mộc thử lương nhân, siêu sinh tịnh độ. Đại phàm chư hầu vương cung phi đẳng, tinh lệ u trinh nhiếp hòa nội trị. Di triển nhu gia chi tháo; ích chương thục thận chi thành. Trữ giáng tiền tinh hiệp suy đồng luật. Mạt nguyện lê dân phú thứ; hoàn vũ túc thanh. Văn quỹ đồng nghi; Hoa Di cộng quán. Ngũ hành thuận tự; bách cốc phong đăng. Tái tuyệt yên trần; quốc vô tai lệ. Nhi thần, thiểm liệt nhạn tự, lạm xí nho lâm. Kỷ sự chi thành; thực thánh chi xảo. Khuynh thiên cắng địa chi công. Tuy hữu Uyên Vân chi tài, Ban Mã chi học, diệc nan tự vạn chi nhất yên. Ký hựu niệm, quỳ hoắc chi tiêm hủy; nhật nguyệt chi chiếu lâm. Thiên tải nhất thì; khánh ngu hà mậu. Cưỡng bỉnh quân hào, cảm thân tự thuật.

Minh viết:

Chí diệu chí tịch,

Vô tượng vô hình.

Cưỡng tự lập danh,

Hi di tất tại.

Đạm bạc mị đãi,

Tiên thiên địa sinh.

Niết nhi bất tri,

Ma nhi bất lận.

Thuần túy duy tinh.

Việt hữu Kim tiên,

Giáng tích Trúc càn.

Thập hiệu câu bị,

Tứ hoằng quảng phu.

Lục độ tề tu,

Cứu tư nguyên vị.

Giác trục phù ngụy,

Thiết thanh tịnh giáo.

Đạo quy chân tính,

Tỉ tĩnh như sơn.

Tam giới chiêm ngưỡng,

Thập phương hồi hướng.

Sư phụng từ nhan,

Chửng tế ký hành.

Phù âu băng thán,

Yếm xử nhân hoàn.

Bạch hồng đằng diệu,

Song thụ phất y.

Kim dung hối ảnh,

Lan cao nhuận thân.

Chiên đàn tác tân,

Hóa hỏa yên thông.

Đồ tì hoán hỗ,

Xá lị ngưng thành.

Doanh bàn dật mãnh,

Hoặc huyễn ngũ sắc.

Hoặc hiển cửu thái,

Hoa hoa huỳnh hoàng.

Âm giới minh trung,

Hoàn vũ thiên cung.

Tứ chủng quốc vương,

Thời giai sậu tập.

Cạnh phấn hùng cường,

Các tự danh tướng.

Kim hàm ngũ trùng,

Long luân bình bí.

Sùng tháp nghiêm trí,

Tự tư dĩ giáng.

Tuế nguyệt diên trường,

Vô bất sùng phụng.

Đãi ngã triết hậu,

Truyền hộ vưu quý.

Phỏng tư tiền chí,

Hướng Long-đội sơn

Điệp thứu hùng kỳ,

Cao suất trùng vân.

Thượng tằng thao tàng,

Trữ dũng thần quang.

Tác thụy minh quân,

Sơn thủy thanh tú.

Yên hà nhân uân,

Quýnh cách trần phân.

Ngự đề gia hiệu:

"Sùng-thiện Diên-linh".

Thọ kỳ di quýnh,

Cốc đán giai thần.

Phúc trường viên mãn,

Phủ thành tương khánh.

Bức tấu triều lâu,

Vân trăn sơn đính.

Trừng tâm oánh tịnh,

Nghê đài cao trắc.

Triều âm tán thân,

Tập hội thiền nhân.

Chung cổ huyên điền,

Trầm đàn phân vân.

Cẩm tú tranh xuân,

Thừa tư phúc tuệ.

Linh ngự câu hệ,

Hàm thoát u truân.

Thần thiểm kỷ sự,

Học vô tam đông.

Tài phi ngũ xa,

Đế công chiêu trứ,

Tổng khai hộ dũ.

Tứ hải hội đồng,

Cộng tán ngũ hoàng.

Thiên trường địa cửu.

Thiên Phù Duệ Vũ nhị niên Tân sửu thất nguyệt sơ lục nhật lập bi. Triều liệt hình bộ thượng thư, binh bộ viên ngoại lang đồng trí phiên công viện chư sự, thần NGUYỄN CÔNG BẬT phụng sắc soạn.

Hữu thị lang, thượng thư, công bộ viên ngoại lang đồng tri thẩm hình viện sự, thượng kinh xa đô úy, tử kim ngư, LÝ BẢO CUNG phụng sắc thư.

Dịch nghĩa

BIA THÁP SÙNG-THIỆN DIÊN-LINH CỦA VUA THỨ TƯ [NHÀ LÝ], ĐƯƠNG LÀM CHỦ NƯỚC ĐẠI VIỆT.

Bia tháp báu Sùng-thiện Diên-linh ở chùa núi Long-đội. Nhãn bia, nhà vua viết bằng lối chữ phi bạch

Cái diệu thể thì huyền tịch, là một ánh linh quang không ở trong, không ở ngoài, nhưng lại là khởi nguyên của năm nguyên tố; còn cái hiện tượng thì tràn đầy, là cõi bao la, có hình thù, có thể chất; nhưng lại nằm trong cái khí thái hư. [Nó] không có dấu hiệu để suy lường; không có bóng hình để tìm kiếm. [Nó] bao hàm cả đất trời rộng lớn, đâu thể dò xem; [nó] hòa đồng cả tinh tú huy hoàng, dễ nào tìm xét. Dẫu có làm cho then máy của tạo hóa chuyển vần, nhưng nó vẫn nghiễm nhiên ở đó; dù có xô đẩy sự mau chậm của âm dương thì cái cốt nhiệm màu vẫn ở yên trong chỗ kín sâu. Đó chẳng phải là huyền tịch hay sao?

Rường mối dưới trên đã dựng; qui mô đào tạo dấy lên. Bốn mùa vần chuyển mà khí hậu điều hòa; bẩy chính thẳng ngay mà tuyền cơ vận động. Muôn loại rối bời; các duyên phiền toái. Chúng sinh từ đó mà có tên; vạn vật nhờ đây mà thỏa tính. Đó chẳng phải là "tràn đầy" hay sao?

Như vậy mà muốn phân tích một cách sâu rộng về cái cơ vi mầu nhiệm, muốn truy nguyên đến cái đầu tiên, muốn thâu tóm đến cái cuối cùng, há chẳng khó lắm thay!

Ngẫm như họ Đại hùng của ta, ứng vận thời trung cổ; hiển linh ở trời Tây. [Người] có trọn ba nghìn uy nghi; ba mươi hai tướng lạ. Mười hiệu đầy đủ; trăm phúc trang nghiêm. [Người] cùng cứu cái tinh vi kia, và sáng tỏ cái thuần túy nọ. [Người] thương cho chúng sinh vì say mê cái "thức"; người xót cho bốn loài vì lầm lẫn điều "chân". Trong áo quên vàng mà chẳng biết; đáy hòm chứa rắn mà không hay. Do đó [người] lập nên diệu giáo của Bồ đề, để nuôi dưỡng kẻ đói lòng đã bao thuở. Thấp ngọn đèn rực rỡ; soi đêm tối bao năm. Khiến cho vẻ hồn nhiên của tấm lòng phóng đãng được yên; làm cho thói bừa bãi của các tính mê lầm được định. Cho nên ba giới qui y; mười phương hồi hướng. Phật ở trần thế bẩy mươi chín năm, thiết lập tám vạn bốn nghìn giáo pháp. Có thể gọi là: hình tích đã hợp với trần hoàn; tấm thân nên lánh xa nơi hư ảo. Bởi vậy, thân thể vàng giấu sắc rừng Song Thụ; cầu vồng trắng rực rỡ nơi tầng trời. Bông đâu la bọc lấy thần tư; dầu tử lan tẩm trong hương thể. Lòng tin luyến mộ dùng gỗ thơm mà làm củi; Phật tính linh thông ứng dàn lửa mà tự thiêu. Khói hỏa đàn vừa tắt; hạt xá lỵ ngưng thành. Giống như hạt châu được sinh ra từ bụng trai, như hạt móc lấp lánh trên bàn tay ngọc. [Hạt] thì rực rỡ năm sắc; [hạt] thì óng ánh chín màu. Tràn mâm đầy hộc; khác tục siêu phàm. Cho nên, các bậc nhân chủ, long vương; các cõi âm gian, thiên tượng. Hết thảy kéo về, chia nhau giáo tướng. Trân trọng thì lấy hòm vàng chứa đựng; giữ gìn thì cầm gương báu canh phòng. Họ đều tìn thấy nơi để đặt xá lỵ, nhưng các nơi không nhất định ở chỗ nào; hoặc trên đỉnh núi Hương Sơn; hoặc giữa cõi trần nhân thế. Hoặc ngoài khoảng không triều dã; hoặc trong cung cấm long vương. Họ thi nhau xây chùa, cất cao vật báu. Từ xưa đến nay; lưu truyền không mất. Như vậy, có thể nói: dày công nối gót há chẳng thịnh vượng lắm sao?

Kính nghĩ đức hoàng đế bệ hạ, bậc" Thánh hiền thể đạo, thánh văn thần vũ, anh cách dân vật, vạn linh chiếu ứng, vĩnh long nguyên hóa, thông minh quảng vận, nhân trí ý nghĩa, thuần thành minh hiếu" của triều Lý, là do đấng trời chung đúc; nhật nguyệt kết tinh. Cho nên điềm lành báo trước; triệu tốt mới ra. Phụ hoàng nằm mộng; nước ngoài dâng voi trắng sáu ngà; mẫu hậu có thai, gác tía phủ rồng vàng năm sắc. Đó là điềm lúc bệ hạ đầu thai vậy.

Sao lành đêm hiện, sông Ngân ứng vẻ sáng trăng non; mây tốt sớm bay bệ đỏ giãi sắc màu lụa trắng. Khí mừng vút thẳng trời xanh; hương lạ ngạt ngào cung cấm. Mười tháng hoài thai tròn cữ; tháng giêng xuân tiết sinh Người. Đó là cái điềm lúc bệ hạ ra đời.

Tuổi thơ mà lên ngôi đại bảo, trời đất khuông phù; trẻ dại mà thống ngự hoàn khu, thần nhân giúp đỡ. Ngươi rồng mắt phượng; trong ngọc trắng băng. Mắt trong mà xanh trắng rõ ràng, khác con mắt hai ngươi đế Thuấn; tai đẹp mà vành tai dài rộng, chê cái tai ba lỗ Hạ vương. Dáng người vạm vỡ; bàn chân đầy đặn. Nét mặt ngọc ôn hòa; vừng tráng cao sáng sủa. Thực là sự anh minh của nghìn đời; vượt hẳn vẻ kỳ tú của trăm chúa. Đây là vẻ trang nghiêm bề ngoài của bệ hạ vậy.

Ơn khắp cỏ cây muông thú; trí nhanh gió táp mưa sa. Sách kinh nội điển, tinh thông tới chỗ yếu huyền; pháp thuật ngoại quyền, thâu tóm được toàn tôn chỉ. Đúc lời đẹp như đá vàng, sáng hơn tinh đẩu; đặt tên hay cho điện tháp, chiếu dọi xưa nay. Sành phép viết để thông thần; vận bút vua đến tuyệt diệu. Thế chữ tựa rồng bay phượng múa, phép viết từ tay ngọc viết ra; hình chữ như loan liệng thước bay, thể chữ do lòng vua thể nghiệm. Khắc biển vàng để chốn Phạn cung; chạm ngọc tốt đặt nơi đạo quán. Tứ thơ tóm muôn hoa của thợ trời; nhạc phổ hòa âm thanh của nhà Phật. Phép viết chữ thì cùng cứu đến huyền cơ; tài bắn cung thì tinh thông đến điệu nghệ. Đó là bệ hạ tinh thông sâu rộng ở tài nghệ vậy.

Gặp lúc trung thu cảnh đẹp; muôn việc nghỉ ngơi. Mở lòng thành sửa soạn cỗ bàn; bày lễ thịnh cúng dâng hoàng khảo. Lại tới sớm mùng ba, mới sắm sửa xe giá. Cưỡi xe ngọc ra ngoài chín bệ; lên xe châu rong ruổi đường vàng. Quạt long trĩ che ở hai bên; kiệu nạm bạc vây quanh bốn phía. Lọng vàng rợp trời; cờ màu lóe nắng. [Như] sao băng rậm liễu; [như] sao chuyển đường hoa. Hướng Trường Lô sông biếc; ngự điện báu Linh Quang. Nghìn thuyền như chớp giật giữa dòng; muôn trống như sấm vang dậy nước. Dưới hiên ngọc thết hội đồng phương bá; trong thềm đan tâu chương biểu sứ tiên. Thả rùa vàng đội ba hòn núi, trên mặt sóng dập dờn; phơi mai văn để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững. Liếc mắt nhìn bờ; hé môi phun bến. Ngửa trong giải mũ nhà vua; cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo; dạo nhạc Thiều réo rắt. Cửa động mở ra; thần tiên xuất hiện. Đều là dáng điệu thiên cung; há phải phong tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi phong; nhăn mày thúy ngợi ca vận tốt. Chim quí từng đàn ca múa; thú lành thành đội xênh xang. Tới lúc ác vàng xế bóng; xe báu sắp về. Đến giữa đường bằng phẳng; ở ngoài cõi Quảng thiên. Hướng thẳng đài cao về lục địa; quay lưng rùa lớn đội ba non. Ngắm bàn son mà vẫy đầu, kéo đuôi an phận. Chim líu lo trong mây; hổ hầm hầm xuống núi. Trổ hết oai hùng; cắn vồ thú nhỏ. Gặp lúc Thượng lâm đệ tử, cầm lọng trĩ cán son. Thét thất thanh xô đến trước vua; đắp bãi rộng làm nơi săn hổ. Kéo cung ruổi bắn; rút kiếm dạo quanh. Kẻ trổ oai phong chốc lát; người đón đánh lúc bấy giờ. Lân quốc mến nên dắt già bế trẻ; chư hầu vua mà vượt núi băng tường. Chăm chú xét xem chinh giáo; ngóng chờ mong thấy mặt vua. Khắp chốn trang hoàng gấm vóc; hằng năm vui vẻ ba ngày. Đưa đời người lên cõi Hồ thiên; đặt dân chúng vào nơi lạc quốc. Đó là việc nhà vua suy xét mà chế tạo rùa vàng vậy.

Làm sáng tỏ sự kỳ diệu của mưu thần, nên chế tạo sự tinh kỳ của thuyền ngự. Theo hình đặt hạm đội tráng hùng; lập cách dựng nghìn thuyền tú lệ. Đặt lầu gác ngất trời; dựng thềm hiên cao vút. Trong đặt tòa thêu cao vọi; để nhà vua rộng tầm mắt nhìn xa; cạnh xen hàng gấm rỡ ràng, cho thể nữ được sẵn sàng hầu cận. Dốc châu báu trang hoàng; đủ ba cung nhà cửa. Giữa dòng buổi sáng lênh đênh, ngỡ hải thận hà hơi chặn sóng; góc bến ban chiều dừng lại, tưởng rùa vàng đội núi chọc trời. Đó là tài chế tạo khéo léo và tân kỳ của bệ hạ vậy.

Rộng vận thần công; cả suy thánh đoán. Sửa sang thắng sự; chăm tới lương duyên. Dựng đài cao quảng chiếu; hướng sân trước đoan môn. Trong nêu một cột; ngoài đặt bẩy tầng. Uốn hình cung nâng lấy sen vàng; may lồng nhiễu che cho ngọn lạp. Dấu cơ vi ở dưới đất, như bánh xe xoay chuyển; rực ánh sáng ở giữa trời, như bóng ác chói chang. Lại có bảo thánh rực rỡ trang nghiêm; điện vàng viện báu. Do ý thánh dựng nên; đặt tượng vàng hai dãy. Dáng tỏ linh văn; hình phô kỳ lệ. Lại có hai toà lầu hoa, trong treo chuông vàng; khắc chú tiểu mình mặc áo nâu sồng; vặn máy ngầm giơ vồ chuông lên đánh. Nghe vỗ bao gươm mà đứng nghiêm quay mặt; nhìn thấy thánh minh mà khom cật cúi đầu. [Những việc này] đều nảy ra từ ý nhà vua, muốn sao được vậy. Lại có đài cao thất bảo, xếp thành một dãy, chính giữa có một ngọn núi vàng. Đặt tượng đẹp Như lai Đa bảo; bày chân hình xe phép mấy tầng. Mái hiên lấp lánh ánh mặt trời buổi sáng; màu ngói huy hoàng vẻ mây biếc ban chiều. Thứ đến hai tòa bạch ngân: bên tả đặt chân dung Phật A-di-đà; bên hữu để xá lị của sắc thân mầu nhiệm. Chiều cao mở ra thế khỏe; vẻ đẹp phô rõ mái cong. Long lanh ngỡ tuyết trắng đang tan; rực rỡ át trăng thu vằng vặc. Thứ nữa lại có hai tòa Điểu văn: bên tả đặt từ nhan của Chính giác; bên hữu đặt diệu tướng của Bồ đề. Đã hoàn thành gác lớn; lại xây dựng lầu cao. Nóc che ngói quí, vách chạm hình rồng. Lại thứ nữa có hai tòa nhà ngà voi: bên tả chạm hình chân dung Phật Cam lồ; bên hữu đặt diệu tướng Phật Bảo thắng. Gọt mày chất quí; cao dựng cột hiên. Các cạnh nạp ngọc quí; các khe khảm sừng tê. Lại soạn kỹ những lời ghi đẹp đẽ, đều khắc vào bên cạnh tòa sen. Mở tấm lòng trong trắng; soi sáng mãi đời sau. Lại tả chín phương bằng năm sắc; khắc bốn cột bằng song huyền. Hai bên nghìn đèn nhấp nháy; bốn mặt rực rỡ vàng son. Có thể gọi là: hơn xa chế độ xưa nay; vượt hẳn sinh thành tạo hóa. Dồn hòa vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày; thỏa tâm mục của thế gian, già nay trẻ lại. Đó là công lao khéo xây dựng thắng duyên của bệ hạ vậy.

Tôn sùng đạo Phật; hâm mộ thắng nhân. Mở chùa Diên Hựu; ở tại vườn Tây. Dấu vết theo quy mô thuở trước; lo toan do thánh ý ngày nay. Đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao trồi lên một cột đá; trên cột có một đóa hoa sen nghìn cánh xòe ra. Trên hoa dựng ngôi đền đỏ sẫm; trong đền đặt kho tượng sắc vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại có đào ao Bích Trì, bắt cầu cong để đi lại. Ở sân trước cầu, hai bên tả hữu xây tháp báu lưu ly. Để mùng một hàng tháng, để mùa xuân hàng năm, nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an; bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng; tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa. Tinh cần chẳng trễ; kính phụng nào ngơi. Vì vậy mà huyền tạo linh thông; đều cùng phù hộ. Đó là bệ hạ dựng chùa thờ Phật để cầu phúc thọ.

Trên vừa trị yên trong nước; dưới đương giúp đỡ lân bang. Bỗng lính thú nơi biên khu trở mặt; gây nên hiềm khích dở dang. Vội vàng chống địch; làm nhục oai thù. Quân châu Ung muôn ức tan tành như mây mù gió cuốn; quân Như Nguyệt trăm vàn đổ vỡ như gặp nắng băng tan. Tự thi hành do viên tướng ngoài biên; đâu có phải lòng vua quyết định. Đưa hoàng cực lên cõi thanh bình; dẫn sinh dân đến nơi giầu có. Quạt gió nhân giáo hóa nước nhà; ra ơn huệ ban cho khắp chốn. [Do đó] Hoàn vương Xạ Chế lìa cung thất đến cửa khuyết xưng thần; quốc chủ La Vu bỏ nước tới đan đình qui phục. Dốc ý kính yêu bệ hạ; nghiêng lòng hướng tới mặt trời. Gần đây bọn mán Ma Sa, cậy có non sông hiểm trở; sinh lòng lang sói, không theo giáo hóa triều đình. Vua ta nổi giận; xe giá lên đường. Mãnh tướng như mây theo; mưu thần như mưa họp. Dàn quân sĩ ở đồng hoang; đánh úp bọn dân hung hãn. Bọn tù trưởng bị bắt; lũ đầu sỏ cầm tù. Ngoài ra thì máu nhuốm cỏ hoang; thây phơi rừng suối. Thả hùm thiêng bắt chuột, nào có khó gì; lăn đá to ép trứng, sao mà dễ thế. Đó là lệ thường mỗi khi bệ hạ dùng võ vậy.

Nhân dân hòa hợp; trăm họ yên vui. Mùa xuân ra mắt, dâng kính ngọc ngà; mùa thu vào chầu, trình bầy chức vị. Họp các nước chư hầu mà yến thưởng; xây bảo đài ba cấp cho quần tiên. Lợp ngói bạc sáng chói trời xanh; đặt tòa sen phô bày tướng báu. Trên nóc phượng hoàng đứng thẳng; chung quanh rồng lớn đua vờn. Lọng trang sức thất trân; đai trang hoàng bách bảo. Đó là: thềm trên cao nhất, thánh thượng ngự chơi; bậc giữa tầm thường, cung tần chầu chực. Nhạc quan đứng sắp dưới sân, đều cùng nhảy múa. Ráng sức thiên tài làm nên điệu  khúc; vỗ về phiên thuộc xa tới ấp Phong. Lưng trời tiếng át mây bay; hòa sáo vang thêm ân sáng. Đó là đức cao nhất về sửa sang văn giáo của bệ hạ.

Làm chân chủ của đất trời; xét huyền cơ của tạo  hóa. Vận trí biến thông; hiển mưu đầy khắp. Tinh tường âm hưởng nước ngoài; phiên dịch yếu đoan mọi nghệ. Chế ra khúc múa tuyệt vời; tỏ rõ niềm vui đời thịnh. Lại chế khúc "tiên tử xuống mây", véo von tiếng hát, ngợi ca công lớn tiền vương; và  khúc "sao băng dời chỗ" uyển chuyển dáng hình, chúc tụng ơn sâu giáo hóa. Đó là sự lo toan nhiệm mầu của bệ hạ vậy.

Đức cùng trời đất, nên năm sao chói sáng; ơn tới cá chim thi muôn vật dâng điềm. Mười chín rồng thần quang phục thềm quỳnh điện báu; một nghìn voi trắng hộ trì vườn cấm ao tiên. Tỏ rõ sự dài lâu của ngôi báu, hợp phù sự ưu thịnh của phúc lành. Cho nên, trời đất hiện điềm thiêng; rừng phô vật lạ. Nên voi thần xuất hiện: hình thù to đẹp; trán hiện thần quang. Nghiệm văn thái sạch trong có bậc; bẩm thông minh chiếu rọi không cùng. Vua đặt tên cho "Thần tượng siêu quần". Ưu đàm đưa thơm, xá lỵ hiện ngọc; cỏ cây dâng phúc, thần vật báo điềm. Nêu lên sự ban phúc không cùng; chỉ rõ sự truyền ngôi vô hạn. Cỏ thơm mọc hai lượt; hươu trắng đến sáu lần. Nai tuyết lại một con; hoẵng đen về một cặp. Thừa mệnh thượng đế; giữ lâu phúc trời. Dồn dập tỏ điềm hay; song song phô vẻ lạ. Rùa nghìn chấm năm màu; sen hai gương một nhánh. Ơn thấm suối nguồn; vật dâng điềm lạ. Cảm ứng sự yên tĩnh của muôn dân, gợi bảo sự hưng long xã tắc. Nên: vành trăng tán ở tầng trời; ánh vàng rọi từ kho tối. Tỏ rõ sự sáng soi là hữu hạn; nói lên sự tuế đoán là vô cùng. Điềm trời báo phúc; khe tối dâng điềm. Một cây cau tía; nẩy lắm mầm thiêng. Giống như các nước bảo vệ triều đình; cũng tựa khắp trời phù trì nguyên thủy. Thời qua chín chục, tiết đến mồng năm. Chuột sinh lông trắng; thông biến lọng nghiêng. Giống như tổ hạc mà dâng điềm lạ; coi rẻ hằng nga để tỏ phúc lành. Hợp với sự thanh bình của bốn bể; hòa cùng sự êm ấm của muôn dân. Sẻ trắng, cưu vàng tụ tập; rồng xanh, cò trắng dâng trình. Dãi tỏ dung nghi trong sạch, nổi lên "duy nhất duy tinh"; đổi thay chất cũ chân thường, theo được " hay nhân hay thứ". Triệu dao chìm, ngựa ký sinh ra; móng mềm nhẹ, trâu đen xuất hiện. Đàn nhạc hợp mà phương xa thần phục; mãnh hổ vờn mà khắp chốn sợ oai. Bươm bướm thành đôi; tuyết lành dầy động. Mưa tuyết dạt bay đầy thước; tượng trưng thời đại thái bình. Mượt mà như long phượng khác thường; rực rỡ như đàn cò thành dẫy. Đàn quạ trắng đua bay; đàn ngỗng trời tranh liệng. Tỏ rõ sự tinh cầu báo đáp; cảm thông lòng thuần hậu thảo hiền. Đọc Phật kinh trọn cuốn mà không ai sánh kịp; chúc thánh thượng muôn năm mà qui định lệ thường. Cau quả ngậm châu; cành dương rưới ngọc. Điềm lành quanh quất chốn Cửu long, át xa châu báu; triệu tốt sinh sôi đầy các ngả, vượt tới phương xa.

Ôi! Vâng chịu phúc dày trời đất; kế thừa mệnh lớn tổ tông. Hơn năm mươi năm trị nước; hàng trăm nghìn nước sợ oai. Mưa nắng hợp thời; trăng sao đúng độ. Người thường nghĩ: việc làm ruộng là căn bản trước tiên; nền chính sự ắt nhờ vào đó. Tuy hàng năm vẫn phải thân hành; nhưng ý chí chưa từng trễ nải. Ngày tháng Năm mùa hạ, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ chín (1118), nhà vua cưỡi xe phượng phi tiên; đáp thuyền rồng diệu bảo. Nắng đẹp sóng im; triều lui mây tạnh. qua dòng Hà Lô; thấy bến Long Lĩnh. Tuy thế núi chênh vênh, nhưng đỉnh vun bằng phẳng. Vua bèn truyền lệnh; buộc dây dừng thuyền. Xuống chiếu cho các quan hộ giá mà bảo họ rằng:

- Trẫm muốn dựng một ngôi chùa ở núi này có được chăng?

Tả hữu bước ra tâu rằng:

- Chúng thần nghe các cụ già trong làng kể lại: ở núi này cứ đến đầu xuân thì trời thường mưa để thấm nhuần cho muôn dân. Vậy bệ hạ nên dựng chùa, để chóng thành thiện quả. Và xin bệ hạ đặt tên núi này là Long Đội.

Nhà vua chuẩn y, bèn hạ lệnh cho viên quan coi việc bói toán, xác định phương hướng: mặt chùa trông ra sông Kinh, gió lặng mặt sông như lụa biếc dải ra; lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sáng. Bên hữu khống chế bình nguyên, trông tới lũy cũ Càn Hưng; bên tả men theo sông nhỏ, quanh Hán Thủy để ra khơi. Xuống chiếu cho thợ thuyền căng giây nẩy mực. Thi của cải làm sáng thêm công đức, khiến quan coi rừng gắng sức để giảm bớt dân tư; chuyển gỗ rừng hết sức thần kỳ, sai thợ mộc giỏi trổ tài để việc làm khéo léo. Lấy đá mân làm đấu; dùng đá vũ dựng hiên. Xây mười ba tầng chọc trời; mở bốn mươi cửa hóng gió. Vách chạm rồng ổ; xà treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng xá lỵ, tỏa tường quang cho đời thịnh sau này; đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia tám tướng khôi ngô; đứng hộ vệ có thần dân cầm kiếm. Chính giữa đặt tượng Đa bảo Như lai; sức thề nguyền sâu rộng; đành hiến cả thân mình. Nghe kệ sen giúp đỡ oai thiêng; lắng kinh Phật chia đôi tòa báu. Treo phướn vàng rực rỡ; cắm lọng tía long lanh. Sân thềm có bậc; lang vũ hai bên. Rồi bên tả chùa dựng cung tứ giác: ngậm hai mâm trấn đất; đội tám tướng trầu trời. Nêu cao khí tượng cho danh sơn; truyền rộng thánh công cho hậu thế. Bên hữu chùa đặt nhà khám nhọn vuông, trong đặt Tân Đầu Hòa thượng [là người bị Phật] đầy ra Ma Lê Sơn. Nhận lời dặn của Như lai; vì chúng sinh mà chứng phúc. Tầng dưới xây đài Lăng Hán, treo đỉnh khí Thú Sơn; buộc chầy kình Bích Hải. Khi đánh thì âm vang tràn ngập ở đường trời; khi nghe thì lưỡi kiếm thôi vung nơi khổ ải. Xây tường bảo vệ; dựng hiên phô trương. Bắc cầu mở rộng đường thôn; trồng bách thành hàng hai dẫy. Hết tinh thành tôn sùng diệu quả, mong cho lịch số dài lâu; hết kiểu lạ xây dựng lầu cao, kỳ vọng tuổi vua thọ mãi. Cho nên nhà vua đặt tên tháp ấy là tháp Sùng Thiện Diên Linh.

Tháp này bắt đầu xây từ niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ chín (1118), đến mùa thu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (1121) thì hoàn thành. Nhân lúc rãnh mà dựng xây; gặp được mùa mà thiết lập. Trải qua ba vụ cầy, bốn mùa lúa chín, sau mới hoàn thành. Đến khi làm lễ khánh thành, sai phụng thường chỉnh đốn kiệu xe; khiến phong bá quét sạch bụi bặm. Khói trầm đàn như mây tỏa khắp sơn khê; bóng cờ phướng như ráng phô đầy các ngả. Chuông trống vang ầm; khánh tiu inh ỏi. Phía trước xe mây Tam bảo; đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung; về hết trẻ già muôn nước. Điện hoa vắt ngang phía trước; chùa phật mở rộng bên trong. Hội tăng ni trai khiết; diễn Giác-đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ; cung nga khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca. Thổi cơm chay trắng muốt, thết khách đói qua đường; phát tiền quí ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn. U hiển đều về; thiên long cùng đến. Đem lực công tối thượng; phúc đức vô lường. Ca ngợi hoàng cương vững bền như trời đất; cầu mong bảo vận vằng vặc như trăng sao. Sớm sinh thái tử; nối mãi mệnh trời. Mong gốc ngành ngàn thuở; cầu xã tắc muôn năm. Cỏ lướt nhiều phương; quì nghiêng muôn nước. Thần dân yêu mến; tổ khảo khuông phù. Thần đạo giúp ngầm; trời người nâng đỡ.

Thái Tổ, Thái Tông và Thánh Tông hoàng đế định xong bốn bề, nhẹ gót lên tiên, nhờ quả phúc này mà ngự mãi tòa sen; Hoàng tỷ Phù Thánh Linh Nhân hoàng hậu, chán cõi trần hoàn; ngự chơi mây khói, gội lương nhân này mà siêu sinh tịnh độ. Nói chung các cung phi của các vua chư hầu, là những người hiền thục ư trinh; điều hòa nội trị. Nâng thêm tiết tháo hiền hòa; tỏ rõ tấm lòng thục thuận. Đợi sao trời xuống, cùng thổi luật đồng. Sau cùng xin nguyện nhân dân giầu có, bốn bể an ninh. Thống nhất sơn hà; Hoa, Di thông suốt. Năm hành tuần tự; thóc lúa trĩu bông. Biên cương im khói lửa; trong nuớc bặt tai ương. Thần, thẹn xen hàng nhạn; lạm dự rừng nho. Ghi chép sự việc hoàn thành; nhờ bởi thánh minh khéo léo. Còn cái công huân nghiêng trời lệch đất của bệ hạ, thì dẫu có tài như Uyên, Vân, có học như Ban, Mã cũng khó lòng ghi lại được muôn một vậy. Lại nghĩ phận rau quì, rau hoắc nhỏ nhoi; nhờ được ánh mặt trời, mặt trăng soi tới. Nghìn năm một thuở; dốc hết lòng ngu. Gượng cầm ngòi bút; đánh bạo trình bày.

Lời minh rằng:

[Cái tâm] rất huyền diệu, rất tĩnh mịch,

Không có dáng, không có hình.

Hãy miễn cưỡng đặt tên cho nó,

Là cái "nghe không thấy, nhìn không được".

Hoàn toàn tự tại,

Sinh trước cả trời đất.

Nhuộm chẳng đen,

Mài chẳng mòn,

Rất mực tinh thuần.

Trước đây có vị Kim tiên,

Giáng sinh xuống nước Thiên-trúc.

[Người] có đầy đủ mười danh hiệu,

Mở rộng bốn điều thề nguyền.

Tu hành theo phép lục độ,

Và truy cứu cái nguồn gốc sâu thẳm [của Đạo].

[Người] xua đuổi cái hư giả,

Đặt ra giáo lý thanh tịnh.

[Khiến cho] đạo được trở về với tính chân thực,

Lặng lẽ như non.

Ba cõi chiêm ngưỡng,

Mười phương quay về.

Người vâng mệnh Từ nhan,

Tế độ đã xong.

[Thấy cuộc đời chỉ là] bọt nổi, băng tan,

[Cho nên người] chán cõi nhân hoàn.

Ánh cầu vồng rực sáng,

[Người] giũ áo ở rừng Song Thụ.

Nét mặt vàng mờ bóng,

Thân tẩm dầu thơm.

Gỗ chiên đàn làm củi,

Khói lửa dàn thiêu bốc tỏa.

Hỏa táng đã xong,

Đọng thành xá lỵ,

Đầy mâm đầy chậu,

Hoặc rực rỡ năm màu,

Hoặc rỡ ràng chín vẻ,

Lấp lánh chói ngời.

Trong cõi âm cung,

Trần hoàn, thiên giới.

Bốn loại quốc vương,

Đều vội vã kéo tới.

Đua nhau trổ sức hùng cường,

Ai nấy đều tự cho mình là danh tướng.

Đem hòm vàng năm lớp [đựng xá lỵ],

[Rồi đặt vào] xe rồng êm ả [chở về].

Kính cẩn đặt lên tháp cao,

Từ đây về sau,

Năm tháng dài lâu,

Không đâu là không sùng phụng.

Đến vị vua hiền của nước ta,

Lưu truyền và gìn giữ lại càng quí.

[Người] theo cái chí của tiền nhân,

Hướng về núi Long Đội.

Xây dựng điện tháp hùng kỳ,

Cao vút khỏi tầng mây.

Rồi cất đặt [xá lỵ] lên tầng cao nhất,

Chờ đợi [xá lỵ] phóng ra ánh kỳ diệu,

Làm điềm lành cho các bậc vua minh triết.

[Đây là nơi] non sông thanh tú,

Mây ráng êm đềm.

Xa dứt hẳn chốn bụi trần mờ đục,

Cho nên nhà vua đề cho một tên gọi rất hay:

Là Sùng Thiện Diên Linh,

Mong cho tuổi thọ dài lâu mãi mãi.

Giờ tốt ngày lành,

Quả phúc đã tròn đầy.

Cùng nhau khánh chúc,

Viếng chùa tấp nập;

Kéo nhau lên đỉnh núi đông đảo như mây.

Giữ lòng trong sạch,

Bước lên đài cao.

Tiếng đọc kinh ca tụng rì rầm,

Cõi trời và cõi người hồi hộp.

Tiếng trống tiếng chuông nhộn nhịp,

Khói hương trầm đàn tỏa bay nghi ngút,

Như gấm vóc đua tươi.

Nhận được phúc tuệ này,

[Những ai còn bị] gông, cùm, tù, ngục,

Đều thoát khỏi sự đau khổ, tối tăm.

Thần thẹn thùng về việc được giao ghi chép;

[Vì cảm thấy] học chưa đủ ba đông,

Tài chưa đọc hết ba xe sách,

Mà công ơn vua thì rực rỡ.

Mở tung các cửa,

Cho bốn bể cùng nhau hội họp.

Để cùng ca tụng năm vua,

Trường tồn như trời đất.

Dịch thơ

Rất diệu mà rất tĩnh,

Không dáng cũng không hình.

Gượng đặt tên cho nó,

"Cực nhỏ" và "cực tinh".

Đạm bạc riêng tồn tại,

Trước thuở trời đất sinh.

Muốn nhuộm đen chẳng được,

Đem mài vẫn nguyên lành.

Diệu thay cái tâm ấy,

Thuần tuý và tinh anh!

 

Xưa bên trời Tây Trúc,

Giáng sinh có Kim tiên.

Mười danh hiệu đầy đủ,

Rộng mở lời thề nguyền.

Tu hành đủ lục độ,

Tham cứu sâu đạo Thiền.

Trí tuệ đuổi hư ngụy,

Dựng giáo lý diệu huyền.

Đưa đạo về chân tính,

Như núi lặng non yên.

Khắp ba cõi chiêm ngưỡng,

Mười phương về hợp duyên.

Người vâng mệnh đức Phật,

Tế độ, vững con thuyền.

 

Chán cõi tục hư ảo,

Như bọt nổi băng tan.

Ánh cầu vồng rực sáng,

Người giũ áo về ngàn.

Nét mặt vàng mờ bóng,

Tấm thân tẩm dầu lan.

Gỗ chiên thơm làm củi,

Khói bay trên hỏa đàn.

Lửa thiêu vừa lụi tắt,

Kết xá lị muôn vàn.

Đầy mâm và đầy chậu,

Hoặc năm sắc rỡ ràng.

Hoặc hiên thành chín vẻ,

Lung linh và chói chang.

 

Khắp thiên cung rộng lớn,

Khắp âm giới, dương gian.

Quốc vương cả bốn loại,

Cùng kéo về rộn ràng.

Tranh hùng, xưng danh tướng,

Mang năm lớp hòm vàng.

Xe rồng êm chuyển bánh,

Tháp báu đặt nghiêm trang.

Từ đó và mãi mãi,

Năm tháng tỏ đèn thang.

Nơi nơi đều thờ phụng,

Người tu hành siêng năng.

 

Đến nay vua nước Việt,

Truyền giữ càng ân cần.

Hướng về núi Long-đội,

Nguyện theo chí tiền nhân.

Xây điện tháp hùng vĩ,

Vượt mây, cao mấy tầng.

Đỉnh tháp đặt xá lỵ,

Mong điềm sinh thánh quân.

Hào quan tỏa phép lạ,

Sông núi vẻ thanh tân.

Mây ráng cùng hòa hợp,

Cách biệt cõi hồng trần.

Đức vua ban tên hiệu,

Tháp "Sùng Thiện Diện Linh".

Cầu mong dài tuổi thọ,

Được tháng tốt ngày lành.

Cùng họp nhau khánh chúc,

Quả phúc đã viên thành.

 

Viếng chùa xe tấp nập,

Như mây tụ non xanh.

Quyết giữ lòng trong sạch,

Lên đài cao tranh vanh.

Rì rầm kinh tụng niệm,

Người, trời hòa vẻ thanh.

Trống chuông khua gióng giả,

Hương trầm khói tỏa quanh.

Gấm vóc khoe xuân sắc,

Phúc lành khắp chúng sinh.

Gông cùm và tù ngục,

Phá bỏ, đời thanh bình.

 

Thần được giao chép việc,

Tài mọn, thêm thẹn thùng.

Ba đông học chưa trọn,

Mà ơn vua vô cùng.

Xin mở tung các cửa,

Cho bốn bể hòa chung.

Ngợi ca đức năm thánh,

Dài lâu cùng núi sông.

Dựng bia ngày 6 tháng Bảy năm Tân sửu, niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (1121).

NGUYỄN CÔNG BẬT, giữ chức triều liệt, hình bộ thượng thư, binh bộ viên ngoại lang đồng tri phiên công viện chư sự, vâng sắc chỉ soạn văn bia.

LÝ BẢO CUNG giữ chức Hữu thị lang, thượng thư, Công bộ viên ngoại lang đồng tri thẩm hình viện sự, thượng khinh xa đô úy, tử kim ngư, vâng sắc chỉ viết chữ bài văn bia.

                                                                                         ĐỖ VĂN HỶ.