Hồ Nguyên Trừng (HoNguyenTrung.htm) |
Tác phẩm |
THI TRIỆU DÚ KHƯƠNG
Trừng đại phụ chí ngoại tổ viết Nguyễn Công, húy Thành Huấn, sự Trần Nhân Vương vi Trung thư thị lang. Tính thậm nhân hậu. Thiếu niên đăng cao khoa, tối năng thí, đương thời vô địch, hậu nhân xưng vi Nam phương thí tổ Thướng hữu Điền viên mạn hứng thí, kỳ nhất liên vân:
Sào điểu ký tâm hưu phạt mộc,
Nghi phong tại địa vị canh điền.
Thức giả thán kỳ nhân tâm cập vật tất hữu dư khương. Hậu kỳ nữ phối ngã tằng tổ, sinh đại phụ cập Trần Minh Vương thứ phi. Phi sinh Nghệ Vương Tốt hữu tặng điển tôn vinh môn phiệt, xương thịnh chi phúc quả như thức giả sở ngôn, kỳ triệu tiên kiến ư thử thi hồ? Dĩ chí tứ thế ngoại tôn như Trừng kim giả, xuất tự u cốc, thiên vu kiều mộc, càn đoạn chi dư lạm đồng thành khí, khởi phi tiên nhân chi trạch vị cát, nãi đắc sinh phùng thành thế, thâm mộc Nghiêu nhân, nhi hữu thử kỳ ngộ dã dư?
Dịch nghĩa
ĐIỀM THƠ ĐỂ PHÚC VỀ SAU
Ông ngoại Tổ phụ của cha Trừng là Nguyễn Công, húy Thánh Huấn Nguyễn Công thờ Trần Nhân Vương, làm chức Trung thư thị lang. Tính rất nhân hậu. Từ lúc còn trẻ đã thi đỗ cao, hay thơ bậc nhất, đương thời không ai địch nổi, người đời sau gọi là thi tổ ở phương Nam. Từng có bài thơ Điền viên mạn hứng, trong có hai câu đối nhau rằng:
Tổ chim đã gửi trên ngàn, gỗ thôi đừng chặt.
Ổ kiến đang làm dưới đất, ruộng chưa vội cày.
Thức giả khen là nhân ái đến cả loài vật, ắt để phúc cho con cháu. Sau đó nguyễn Công gả con gái cho tằng tổ của tôi, tức là mẹ của ông tôi và bà thứ phi của Trần Minh Vương. Bà phi đã sinh ra Nghệ Vương. Lúc bà mất, tổ tiên được phong tặng theo điển lệ "Tôn vinh môn phiệt", cái phúc đương thịnh ấy quả đúng như lời thức giả đã nói, điều này đã thể hiện trong những câu thơ như trên chăng? Cho đến cháu ngoại bốn đời như Trừng ngày nay, ra tự hang sâu, dời đến cây cao, một khúc rãnh thừa cũng làm thành vật có ích, há chẳng phải do phúc trạch của tổ tiên chưa dứt, mới được sống gặp chiều thánh, tắm gội nhân Nghiêu, mà có chuyện kỳ ngộ này ư?
TUẤN NGHI