Cover Image
Đóng cuốn sách này Trần Tung
(TranTung.htm)
đóng thư mục này Tác phẩm
Xem tài liệu Kiến Giải
Xem tài liệu Dưỡng Chân
Xem tài liệu Thủ Nê Ngưu
Xem tài liệu Phỏng Tăng Điền Đại Sư
Xem tài liệu Vấn Phúc Đường Đại Sư Tật
Xem tài liệu Hý Trí Viễn Thiền Sư Khán Kinh Tả Nghĩa
Xem tài liệu Điệu Tiên Sư
Xem tài liệu Thị Chúng
Xem tài liệu Thị Học
Xem tài liệu Ngẫu Tác
Xem tài liệu Giản Để Tùng
Xem tài liệu Xuất Trần
Xem tài liệu Chí Đạo Vô Nan
Xem tài liệu Tâm Vương
Xem tài liệu Phóng Ngưu
Xem tài liệu Đề Tinh Xá
Xem tài liệu Ngẫu Tác
Xem tài liệu Chiếu Thân
Xem tài liệu Tự Tại
Xem tài liệu Thị Tu Tây Phương Bối
Xem tài liệu Thoát Thế
Xem tài liệu Giang Hồ Tự Thích
Xem tài liệu Thị Đồ
Xem tài liệu An Định Thời Tiết
Xem tài liệu Nhập Trần
Xem tài liệu Vạn Sự Quy Như
Xem tài liệu Thế Thái Hư Huyễn
Xem tài liệu Họa Huyện Lệnh
Xem tài liệu Họa Hưng Trí Thượng Vị Hầu
Xem tài liệu Tụng Thánh Tông Đạo Học
Xem tài liệu Giang Hồ Tự Thích
Xem tài liệu Vật Bất Năng Dung
Xem tài liệu Thướng Phúc-Đường Tiêu Dao Thiền Sư (Tịnh Dẫn)
Xem tài liệu Phúc-Đường Cảnh Vật
Xem tài liệu Tặng Thuần Nhất Pháp Sư
Xem tài liệu Khuyến Thế Tiến Đạo
Xem tài liệu Thị Chúng
Xem tài liệu Trụ Trượng Tử
Xem tài liệu Tự Đề
Xem tài liệu Đốn Tỉnh
Xem tài liệu Thoái Cư
Xem tài liệu Phật Tâm Ca
Xem tài liệu Phóng Cuồng Ngâm
Xem tài liệu Sinh Tử Nhàn Nhi Dĩ
Xem tài liệu Phàm Thánh Bất Dị
Xem tài liệu Mê Ngộ Bất Dị
Xem tài liệu Trì Giới Kiêm Nhẫn Nhục
Xem tài liệu Trừu Thần Ngâm
Xem tài liệu Trữ Từ Tự Cảnh Văn
Xem tài liệu Đối Cơ
Xem tài liệu Tụng Cổ
Xem tài liệu Tịnh Bang Cảnh Vật

THƯỢNG SĨ NGŨ LỤC

ĐỐI CƠ

Nhất nhật sư yến cư, thứ môn tăng thị lập.

Thời hữu tăng vấn:

- Khải tư Thượng sĩ, mỗ vị sinh tử sự đại, vô thường tấn tốc, vị thẩm thử thân, sinh tòng hà lai? Tử tòng hà khứ?

Sư vân:

Trường không túng sử song phi cốc,
Cự hải hà phương nhất điểm âu.

Tiến vân:

- Như hà thị đạo?

Sư vân:

- Đạo bất tại vấn, vấn bất tại đạo.

Tiến vân:

- Cổ đức vân: "Vô tâm thị đạo", thị phủ?

Sư vân:

Vô tâm bất thị đạo,
Vô đạo diệc vô tâm.

Hựu vân:

- Nhược tha thuyết vô tâm thị đạo tức nhất thiết thảo mộc giai thị đạo. Nhược khước thuyết vô tâm bất thị đạo, hà giả thuyết hẵu vô? Thính ngô kệ viết:

Bản vô tâm vô đạo,
Hữu đạo bất vô tâm.
Tâm đạo nguyên hư tịch,
Hà xứ cánh truy tầm?

Tăng khoát nhiên lĩnh chỉ, lễ bái thoái.

*

Vấn:

- Khải tư Thượng sĩ, như hà thị Phật pháp đại ý?

Sư vân:

Ngao đầu đả lãng tiêu minh nhãn,
Bằng dực đoàn phong lũ nghị trường.

Tiến vân:

- Nhậm ma tắc học nhân đắc nhập đâu xứ?

Sư viết:

Bà giới phi tha giới,
Cơ xan chỉ nhữ xan.

Tiến vân:

- Như hà thị thanh tịnh pháp thân?

Sư vân:

Xuất nhập ngưu tâu nội,
Toàn nghiên mã phẩn trung.

Tiến vân:

- Nhậm ma tắc chứng nhập khứ dã?

Sư vân:

- Vô uế cấu niệm, thị thanh tịnh thân. Thính ngô kệ viết:

Bản lai vô cấu tịnh,
Cấu tịnh tổng hư danh.
Pháp thân vô khuể ngại,
Hà trọc phục hà thanh?

Hựu vấn:

- Quy Sơn đạo: lão tăng bách niên hậu, hướng sơn hạ tác nhất đầu thủy cổ ngưu. Ý chỉ như hà?

Sư vân:

Hồng đạo trác tàn anh vũ lạp,
Bích ngô thê lão phượng hoàng chi.

Tiến vân:

- Tích Tất Đạt Thái tử nhập thiên thần miếu, thần tượng bái túc, kỳ sự như hà?

Sư vân:

Khai quyền nguyên thị chưởng,
Niết mục hựu thiên sai.

Vấn:

- Nam Tuyền mãi thân, ý chỉ như hà?

Sư vân:

-Chính vị mãi mệnh, ý chỉ như hà?

Tăng vô ngữ.

Sư hát, xuất.

*

Vấn:

- Thủy Lạo Hòa thượng, sơ tham Mã Tổ, vấn Tây lai ý. Tổ nhất đạp tháp đảo. Lạo khởi lai đại ngộ, phủ chưởng kha kha đại tiếu, ý tác ma sinh?

Sư vân:

- Long tượng xúc đạp, phi lư sở kham.

Tiến vân:

- Hậu thị chúng đạo: "Tự tòng nhất khiết Mã sư đạp, trực đáo như kim tiến bất hưu. Hựu tác ma sinh?

Sư vân:

Chân sư tử chi hao hống,
Phi dã can chi hào minh.

Tiến vân:

- Học nhân bất hội.

Sư dĩ kệ thị chi:

Nhất đạp tháp đáo,
Thủy giải tầm thảo,
Đại tiếu khởi lai,
Tăng sinh ảo não.
Yếu thức Tây lai,
Mã câu khiết thảo.

Tăng lễ thoái.

*

Vấn:

- Khải tư Thượng sĩ: "Thanh thanh thúy trúc tổng thị pháp thân" thị phủ?

Sư vân:

Sa-di tạc nhật thực khê duẩn
Mạc thị như kim nhữ pháp thân.

Tiến vân:

- "Uất uất hoàng hoa vô phi bát nhã", ý tác ma sinh?

Sư vân:

Đào hoa bất thị bồ-đề thụ,
Hà sự Linh Vân nhập đạo tràng?

Tiến vân:

- Hữu tam tù a sư hành cước, thử lộ phùng nhất hổ, các tòng hổ biên quá, thời như hà?

Sư vân:

Phong xuy bất ngại hoa gian mật,
Nguyệt lạc vô phưpưng giản để thâm.

Tiến vân:

- Quy tông đạo: "Đại tự miêu nhi", ý tác ma sinh?

Sư vân:

- Khẩu thuyết bất nhị thân phùng.

Tiến vân:

- Trí Kiên đạo: "Đại tự cẩu tử", ý chỉ như hà?

Sư vân:

- Giá lão hán, dụgn đắc niết tụ tảo đãng chi cơ, nhiên khả tích hử.

Tiến vân:

- Sư tác ma sinh?

Sư vân:

- Cẩu tử.

Tiến vân:

- Nam Tuyền đạo: "Thị cá đại trùng", ý chỉ như hà?

Sư vân:

- Cước cân bất điểm địa.

*

Vấn:

- Hương Nghiêm thông Tam tạng giáo, vị thập ma sự bất hiện tiền?

Sư vân:

- Trường Phòng tri trúc trượng.

Tiến vân:

- "Kính trúc vong sở tri", ý tác ma sinh?

Sư vân:

- Ngư phủ thất kim thoa.

Tiến vân:

- Như hà thị pháp thân?

Sư vân:

Trì biên khan lưỡng cá
Nguyệt hạ hỷ tam nhân.

Tiến vân:

- Pháp thân dữ sắc thân thị đồng thị biệt?

Sư vân:

Kiếm trước Long-tuyền hiệu,
Châu xưng hổ phách thiên.

Vấn:

- Thế Tôn đạo: "Tứ thập cửu niên, vị thường thuyết nhất tự". Thập nhị phận giáo, thậm xứ đắc lai?

Sư vân:

Kiêm xung xuất hợp cầu khôi phục,
Linh bảo khai bình dục bênh tiêu.

Tiến vân:

- Như hà thị tự kỷ Phật?

Sư vân:

Bất hướng bồ đào tửu,
Hy phung phá úng nhân.

Tiến vân:

- Như hà lý hội?

Sư vân:

Đại hạ nhất dạ miên,
Trường gian đồng độ thuyền.

Tiến vân:

- Như hà thị cổ Phật tâm?

Sư vân:

Tận đạo mãn thành vô quốc diễm,
Bát tri chu hộ hữu thuyền quyên.

Tiến vân:

- Cổ nhân đạo: "Tức tâm tức Phật", vị thập ma Phật bất hiện tiền?

Sư vân:

Thám châu phẫu bạn tuy nan đắc,
Mạc hướng khoa ngư tác biệt tầm.

Tiến vân:

- "Bất khả dĩ trí tri, bất khả dĩ thức thức", thời như hà?

Sư vân:

Mộc nhân nhập hải vô sinh xướng,
Thạch nữ xuyên vân tất lật xuy.

Tiến vân:

- Nhậm ma tắc: "vô thức diệc vô tri"?

Sư vân:

Khổng Nhân vị tiến truy phong thức,
Tiết chúc phi tư tiệt vũ tri.

Tiến vân:

- "Kiến sắc tiện vân tâm", ý chỉ như hà?

Sư vấn:

Tu tri khỏa quốc giải sa khóa,
Mạc tác Hàm-đan vong ngọc đào.

*

Khải vấn:

- Như hà Thượng sĩ gia phong?

Sư vân:

Nhàn phao nham quả hô viên tiếp,
Lãn điếu khê ngư dẫn hạc tranh.

Tiến vân:

- Tổ ý dữ giáo ý, thị đồng thị biệt?

Sư vân:

Ba, thủy danh tuy dị,
Khai, hàm nãi nhất hoa.

Tiến vân:

- Bồ đề, phiền não, đồng biệt như hà?

Sư vân:

Thủy chung diêm vị,
Sắc lý giao thanh.

Tiến vân:

- Như hà thị sinh tử nghiệp?

Sư vân:

Thu sương trích trích lô hoa ngạn,
Dạ tuyết phân phân nguyệt sắc thiên.

Tiến vân:

- Dật Đa bất tu định tuệ, vị thập ma thành Phật vô nghi?

Sư vân:

Hồng đào thụ trượng chân thời tiết,
Hoàng cúc ly biên bất thị xuân.

Tiến vân:

- Tọa Thiền tập định thời như hà?

Sư vân:

- Quân vương hạ thức đấu oa trì.

Tiến vân:

- Bất tọa thiền định thời như hà?

Sư vân:

- Tự thích giang hồ Phạm Lãi chu.

Vấn:

- "Dục đạt vô sinh lộ: tu tri thức bản nguyên", như hà thị bản nguyên?

Sư vân:

Tầm nguyên phi hữu bản,
Cứ bản diệc vô nguyên.

Tiến vân:

- Giáo trung đạo: "Không tức thị sắc, Sắc tức thị không", ý chỉ như hà?

Sư lương cửu, vân:

- Hội ma?

Tiến vân:

- Bất hội.

Sư vân:

- Hà vị "sắc tức thị không"?

Hựu vân:

- Nhữ kiến không hữu tướng mạo ma?

Tiến vân:

- Vô.

Sư vân:

- Hà vị "không tức thị sắc"?

Tiến vân:

- Tất cánh như hà?

Sư vân:

Sắc bản vô không,
Không bản vô sắc.

Tăng lễ tạ.

Sư vân:

- Thính ngô kệ viết:

Sắc tức thị không không thị sắc,
Tam thế Như Lai phương tiện lực.
Không bản vô sắc sắc vô không,
Thể tính minh minh phi thất đắc.

Dịch nghĩa

TÙY THEO CƠ DUYÊN MÀ ỨNG ĐỐI

Một ngày kia, Sư rảnh rang, hàng môn đệ sau trước đứng hầu. Bấy giờ có một vị môn tăng hỏi:

- Bạch Thượng sĩ: Tôi cho rằng sống chết là việc lớn. Nó vô thường và mau lẹ. Chưa rõ tấm thân này từ đâu sinh ra? Chết rồi sẽ đi đâu?

Sư đáp:

Đôi vành luân chuyển giữa bầu trời,
Biển cả lo gì chút bọt trôi.

Lại hỏi:

- Thế nào là đạo?

Sư đáp:

- Đạo không ở trong câu hỏi. Câu hỏi không ở trong đạo.

Lại hỏi:

- Hàng đại đức xưa nói: "Vô tâm tức là đạo", đúng chăng?

Sư đáp:

Vô tâm nào phải đạo,
Vô đạo cũng vô tâm.

Sư lại nói tiếp:

- Nếu họ bảo: "Vô tâm là đạo" thì tất cả các cỏ câu đều là đạo cả sao? Bằng ngược lại nói "Vô tâm không phải là đạo", thì sao còn nói chuyện "hữu", "vô" làm gì? Hãy nghe bài kệ của ta:

Vốn không tâm không đạo,
Có đạo chẳng không tâm.
Tâm, đạo là hư tịch,
Biết nơi nào truy tầm?

Môn tăng bừng tỉnh, lĩnh ý, vái lui ra.

*

Hỏi:

- Bạch Thượng sĩ. Thế nào là đại ý của Phật pháp?

Sư đáp:

Đầu ngao vỗ sóng, mắt sâu bọ,
Cánh bằng lướt gió, ruột kiến trùng.

Lại hỏi:

- Như vậy thì người học đạo làm thế nào để bước vào nơi đó?

Sư đáp:

Gãi ngứa phải đâu ngứa của người,
Đói ăn chính thật bụng nhà ngươi.

Lại hỏi:

- Thế nào là thanh tịnh Pháp thân?

Sư đáp:

Ra vào trong nước đái trâu,
Chui rúc giữa đống phân ngựa.

Lại hỏi:

- Vậy làm thế nào mà chứng ngộ được?

Sư đáp:

- Không có khái niệm nhơ bẩn tức là pháp thanh tịnh. Hãy nghe bài kệ của ta:

Xưa nay không bẩn, sạch,
Bẩn, sạch đều hư danh.
Pháp thân không vướng mắc,
Nào "trọc" với nào "thanh"!

Lại hỏi:

- Quy Sơn nói: "Trăm năm sau lão tăng này sẽ xuống núi làm con trâu nước". Ý nghĩa thế nào?

Sư đáp:

Nếp hồng mổ lụi hạt anh vũ,
Ngô biếc ngồi trơ nhánh phượng hoàng.

Lại hỏi:

- Xưa Thái tử Tất Đạt SSa vào miếu Thiên-thần, tượng thần sụp lạy dưới chân, việc ấy thế nào?

Sư đáp:

Xòe ra vẫn một bàn tay,
Ấn vào mắt đã hóa ngay nghìn hình.

Hỏi:

- Nam Tuyền bán mình, ý nghĩa thế nào?

Sư hỏi lại:

- Còn lúc chưa bán mình, thì ý nghĩa thế nào?

Môn tăng không đáp được.

Sư quát lên, và đi ra.

*

Hỏi:

- Hòa thượng Thủy Lạo lần đầu tiên đến tham bái Mã tổ, hỏi về ý nghĩa việc "từ phương Tây tới". Tổ liền đạp cho một đạp ngã nhào. Thủy Lạo ngồi dậy, bừng tỉnh, vỗ tay cười ha hả. Vậy là ý thế nào?

Sư đáp:

Cái đạp của rồng voi,
Sức lừa nào chịu nổi.

Lại hỏi:

- Về sau, mỗi khi gợi bảo học trò, Thủy Lạo nói: "Từ khi ăn đạp của Mã tổ. Cười đến bây giờ vẫn chưa thôi". Thế là ý nghĩa gì?

Sư đáp:

Quả thật tiếng gầm sư tử,
Phải đâu giọng rú cáo đồng.

Lại hỏi:

- Đệ tử không hiểu.

Sư bèn đọc bài kệ để gợi ý:

Một đạp ngã nhào,
Ai hay giảng rõ.
Trỗi dậy cả cười,
Lại sinh buồn khổ.
Hiểu lẽ "Tây sang",
Ngựa tơ ăn cỏ.

Môn tăng vái, lui ra.

*

Hỏi:

- Dám bạch Thượng sĩ: "Trúc xanh biêng biếc, Thảy đều pháp thân", đúng chăng?

Sư đáp:

Sa-di măng suối chén ngày xưa,
Nào phải pháp thân người hiện giờ.

Lại hỏi:

- "Rực rỡ hoa vàng, đều là bát nhã" ý nghĩa thế nào?

Sư đáp:

Bồ-đề nào phải ở hoa đào,
Giác ngộ Linh Vân, hỏi cớ sao?

Lại hỏi:

- Có ba vị sư trưởng đi vân du các nơi, giữa đường gặp một con hổ, ai nấy đều đi qua cạnh nó. Bấy giờ như thế nào?

Sư đáp:

Gió xao, hoa râm quản gì,
Trăng chìm tận đáy, nào vì suối sâu.

Lại hỏi:

- Quy Tông nói: "Lớn tựa con mèo", đó là ý gì?

Sư đáp:

- Miệng nói không bằng mình gặp.

Lại hỏi:

- Trí Kiên nói: "Lớn như con chó", đó là ý gì?

Sư đáp:

- Lão ấy nắm được cái cơ rũ sạch lâng lâng. Nhưng có điều đáng tiếc.

Lại hỏi:

- Còn ý Sư thế nào?

Sư đáp:

- Con chó.

Lại hỏi:

- Nam Tuyền nói: "Đó là con cọp lớn, đó là ý gì?

Sư đáp:

- Chân không chấm đất.

*

Hỏi:

- Hương Nghiêm lầu thông Tam tạng, tại sao sự việc không hiện ra trước mắt?

Sư đáp:

- Trường Phòng cầm gậy trúc.

Lại hỏi:

- "Nghe tiếng đánh vào trúc mà quên hết điều hiểu biết!", ý nghĩa thế nào?

Sư đáp:

- Ông chài mất cái thoi dệt cửi vàng.

Lại hỏi:

- Thế nào là Pháp thân?

Sư đáp:

Bên ao thấy một đôi,
Dưới trăng vui ba người.

Lại hỏi:

- Pháp thân với sắc thân giống nhau hay khác nhau?

Sư đáp:

Gươm mang hiệu Long-tuyền,
Ngọc xưng tên hổ phách.

*

Hỏi:

- Phật Thế Tôn nói: "Suốt bốn mươi chín năm nay, ta chưa hề nói mọt tiếng nào", thế thì mười hai phận giáo do đâu mà có?

Sư đáp:

Kiếm vung khỏi hộp mang về lại,
Thuốc bán lìa bình muốn bệnh tiêu.

Lại hỏi:

- Thế nào là Phật chính mình?

Sư đáp:

Không nhấp rượu bồ đào,
Khó tìm người đập hũ.

Lại hỏi:

- Làm thế nào mà biết được?

Sư đáp:

Một đêm cùng ngủ nhà to,
Gặp con sông rộng chung đò cùng sang.

Lại hỏi:

- Thế nào là tâm của cổ Phật?

Sư đáp:

Đều bảo khắp thành không quốc sắc,
Hay đâu cửa tía có thuyền quyên.

Lại hỏi:

- Người xưa nói "tức tâm tức Phật", mà sao Phật không hiện ra trước mắt?

Sư đáp:

Mổ trai, dầu vẫn khó tìm châu,
Mổ cá, đừng mong dễ kiếm đâu.

Lại hỏi:

- "Không thể dùng "tri" mà biết, không thể dùng "thức" mà hiểu", thế thì nên làm thế nào?

Sư đáp:

Người gỗ tìm xuống biển,
Ca hát khúc vô sinh.
Gái đá lướt mây xanh,
Thổi điệu buồn tất lật.

Lại hỏi:

- Thế nào là "vô thức cũng vô tri"?

Sư đáp:

Khổng Nhân chưa trình rõ,
Tài "thức" ngựa "truy phong";
Tiết Chúc hẳn khó lòng,
Giỏi "tri" gươm "tiệt vũ".

Lại hỏi:

- "Thấy sắc liền nghe tâm", ý nghĩa thế nào?

Sư đáp:

Vào nước "cởi trần" nên bỏ khố,
Đừng học Hàm-đan quên ngọc đào.

*

Dám hỏi:

- Gia phong của Thượng sĩ thế nào?

Sư đáp:

Nhàn, kêu vượn đón quả rừng,
Lười câu cá suối, xin cùng hạc tranh.

Lại hỏi:

- Tổ ý và giáo ý giống nhau hay khác nhau?

Sư đáp:

Sóng, nước tuy hai chẳng cách xa,
Hoa dù nở, nụ vẫn là hoa.

Lại hỏi:

- Bồ-đề và phiền não, giống nhau khác nhau thế nào?

Sư đáp:

Vị muối trong nước biển,
Sắc keo giữa màu xanh.

Lại hỏi:

- Thế nào là nghiệp sinh tử?

Sư đáp:

Sương thu tí tách bờ lau,
Tuyết đêm lất phất dưới bầu trời trăng.

Lại hỏi:

- Dật Đa không tu định tuệ, tại sao vẫn thành Phật như thường?

Sư đáp:

Trên cây, đào thắm đúng kỳ,
Cúc vàng bên dậu chắc gì đã xuân.

Lại hỏi:

- Ngồi thiền tập định thì thế nào?

Sư đáp:

- Vua chúa xuống xe chào ếch bướng.

Lại hỏi:

- Không ngồi Thiền tập định thì thế nào?

Sư đáp:

- Thuyền Phạm Lãi sông hồ thỏa thích.

*

Hỏi:

- "Muốn đạt đến đường vô sinh, cần biết rõ cội nguồn". Thế nào là cội nguồn?

Sư đáp:

Tìm nguồn không có cội,
Bám cội thấy đâu nguồn.

Lại hỏi:

- Trong giáo lý nói: "Không tức là sắc, sắc tức là không", ý nghĩa thế nào?

Sư im lặng giây lâu, hỏi:

- Đã hiểu chưa?

Đáp lại:

- Chưa hiểu.

Sư nói:

- Ngươi có sắc thân không?

Đáp lại:

- Có.

Sư nói:

- Vậy sao nói "sắc tức là không?"

Lại nói tiếp:

- Ngươi có nhìn thấy cái "không"có trạng mạo gì không?

Đáp lại:

- Không.

Sư nói:

- Vậy sao nói "không tức là sắc"/

Lại hỏi:

- Rốt cuộc là thế nào?

Sư nói:

Sắc vốn chẳng phải không.
Không vốn không phải sắc.

Môn tăng lễ tạ.

Sư bảo:

- Nghe kệ ta đây:

Sắc tức là không, không tức là sắc,
Ba đời chư Phật quyền biến đặt.
Không vốn không sắc, sắc không không,
Thể tính sáng làu, chẳng được mất.

Hét.

ĐỖ VĂN HỶ - HUỆ CHI