Kỳ nhất
Đông Triều đa hữu hảo giang san,
Khổ luyến minh thời cảm khất nhàn.
Lục ám hạc điền kim tái đáo,
Vân thâm long ngự liểu nan phan.
Phong hiên thủy hạm thương đài cổ,
Trúc kính hoa hề cẩm thạch ban.
Tằng thị tiên hoàng du thưởng địa,
Xuân lai sầu tứ tối tương quan.
Kỳ nhì
Trường Dương tấu phú tạ vô năng,
Thứ địa tằng bồi ngọc liễn đăng.
Tích nhật trì đài kim thượng tại,
Mãn thôn hoa điểu hận nan thăng.
Sơn vi An Dã tình lam ái,
Thủy hối Trà Giang bạch lãng tằng.
Phục ngoại vạn đồn xuân tự cẩm,
Hiếu tư Thiên tử chính triều lăng.
LÊN NÚI THIÊN KỲ ĐỀ THƠ LƯU NIỆM
Bài thứ nhất
Đông Triều có nhiều núi sông đẹp,
Luyến tiếc triều vua sáng suốt chẳng dám xin về sống nhàn.
Màu xanh che mộng chim hạc, nay lại đến thăm,
Mây phủ kín nơi rồng ngự, thật khó mà vin tới.
Hiên hóng gió, lan can bên giòng nước, rêu xanh mọc tự bao giờ,
Lối trúc đường hoa, đá cẩm thạch in màu loang lổ.
Đây chính là đất du thưởng của tiên hoàng,
Xuân về với nỗi buồn thường có mối liên quan.
Bài thứ hai
Xin từ tạ không có tài dâng bài phú Trường Dương,
Đã từng theo hầu xe ngọc lên thăm đất này.
Ao dài ngày trước nay còn đây,
Hoa, chim khắp xóm thôn, mối sầu khôn xiết.
Núi vây quanh An Dã, hơi bốc lên nghi ngút,
Nước chảy dồn về Trà Giang làn sóng bạc điệp trùng.
Nấp bên ngoài hàng vạn đồn binh, về xuân tựa gấm,
Chính lúc Thiên tử nghĩ về đạo hiếu, đang triều yêt nơi lăng tẩm.
Đông Triều sông núi đẹp cơ man,
Mến buổi anh minh, lọ dám nhàn.
Ruộng hạc cây xanh nay lại đến,
Xe rồng mây khuất, khó đường lên.
Luống hoa, đá gấm đà loang lổ,
Hiên gió, rêu xanh đã phủ tràn.
Đây chốn tiên hoàng thường thắng thưởng,
Xuân về, sầu cảm lại liên quan.
ĐÀO PHƯƠNG BÌNH