Cover Image
Đóng cuốn sách này Khuyết Danh
(KhuyetDanh8.htm)
đóng thư mục này Tác phẩm
Xem tài liệu Cự Việt Quốc Thái Úy Lý Công Thạch Bi Minh Tự

CỰ VIỆT QUỐC THÁI ÚY LÝ CÔNG THẠCH BI MINH TỰ

    Suy trung hiệp mưu, bảo tiết thủ chính, tá lý dực đới công thần, thủ thượng thư lệnh, khai phủ, nghi đồng tam ti, nhập nội nội sảnh đô đô tri, kiểm hiệu thái úy kiêm ngự sử đại phu, dao thụ chư trấn, tiết độ sứ, đồng trung thư minh chính bình chương sự, thượng trụ quốc, thiên tử tứ tính, dặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, nguyên súy đại đô thống.

    Tự viết: điểu hữu phượng nhi ngư hữu côn, nhân diệc hữu chi giả. Chung nhạc độc chi khí, ngũ bách niên nhi đĩnh sinh. Cư tướng tướng chi vị; thập vạn hộ vi chủ. Uy khả úy nhi nghi khả tượng; biểu tắc chính nhi hình tắc đoan. Tá thế lập thái bình chi cơ, tại triều hữu kiển trực chi chí. Tỵ quyết Hậu Tắc; vọng dữ Y Chu. Kỳ tồn dã, nhân vinh chi; kỳ một dã, nhân ai chi. Tự sinh dân dĩ lai, vị chi hữu dã. Ngô kiến kỳ  Thái úy, Lũng-tây chi Quách công Anh Vũ tự Quán Thế. Kỳ tiên thị Thái Tông triều thái úy Quách công bản Tế-giang Câu-lậu huyện nhân dã. Sinh Thường Kiệt phụ Nhân Tông triều, nãi Thái úy chi tứ quốc tính Lý thị. Khảo tướng Đỗ thị tức Thái úy Lý công ngoại sanh dã. Gia cư Tây-dự hương, thiếu thời nghệ vu kinh sư, kiến lệnh tộc nữ, tâm hoài thục thận, tính bẩm nhu trinh, tiếu đoạt xuân hoa, hạnh như mỹ ngọc, tướng ái hữu khuê lệ, toại nạp thái vấn danh. Sinh nhị tử yên, nam viết công. Thái sư Trương công đổ kỳ kỳ cốt, thức kỳ quốc khí, nãi dục vi kỷ tử. Nữ viết Quỳnh Anh, giá Thị trung Phạm thị.

    Công thủy tự ấu trùng, phong tư khiết tuyết, nhan thái chiếu nhân. Thiên Phù Duệ Vũ ngũ niên Giáp thìn, Nhân Tông hoàng đế quyến kỳ thần tư, tri kỳ thông mẫn, tuyển cư tử cấm. Công trì kỳ can thích nhi đạo tú nhân, xướng hồi phong nhi phiên nhược liễu, lợi tân chi quốc nhi quan quang giả, mạc bất mục vong.

Thần Tông triều Đinh mùi tuế tuyển thị duy ác, vị quán lục thượng  Dịch đình khổn nội chi chính, bách công chế tác chi sự, đế tất ủy chi. Chí như thư số xạ ngự, dược thạch kinh mạch, vô sở bất thông. Âm dương binh pháp, hu bồ bác, dịch, vô sở bất cứu. khả vị quân tử bất khí hĩ.

Thiên Chưong Bảo Tự tam niên thái thốc chi nguyệt, thăng bình nhật cửu, tứ hải vô ngu. Văn-đan phạm kỳ Nam bỉ, đé khiển công dữ Thái phó Lý Công Bình thống tam thập vạn binh, tuần hải chí Nhật- nam  Âm-dã. Công vọng kiến tặc doanh nhi vị viết: "Thiên tử chi binh chinh nhi vô chiến, khỏa chất chi tục, thiên kỳ tất chu". Ư thị phong chấn sơn đảo, tặc nãi bố cụ, toại hội nhi quy. Công binh truy bôn trục bắc, trảm tướng cầm phù, chí  Vụ-ôn nhi hoàn.

Hựu thị niên phục mệnh tiễn phạt, Sơn-liêu thị biểm phất đình, đế nãi mệnh công dữ chư tướng lĩnh binh xuất chinh nhi độc công tiến tiệp, bất khả thăng kế, ư thị nhân tư phấn dũng. Phàm khổn ngoại chi sự tắc thôi cốc nhi khiển chi.

Thiệu Minh nguyên niên Đinh tỵ, vô địch chi nguyệt, đế bất dự, nãi đáo hối bằng kỷ viết: "Khả thác Lý thị tất công dã". Đãi cung xa yến giá, công nãi dữ Hiến  Chí  hoàng thái hậu nghinh vu Thượng-thanh để, phù trắc hoàng giai, dực quyết triều cương, bách quan thống kỷ dĩ thính mệnh. Khuông kỳ thứ chính, vạn dân dẫn lĩnh nhi cụ chiêm. Hoàng thái hậu tháng kỳ huân lao,  gia kỳ trung tiết, gia công Kiểm hiệu thái phó. Nga chí Mậu ngọ tuế vô dịch chỉ nguyệt, tiến bái Phụ quốc thái úy, tứ quốc tính Lý thị, quân  sự vô bất đề thống. thời biên sốc chi địa, Kê-động chi gian, hốt hữu yêu đồng Thượng Suy Vi xưng Nhân miếu cô tử, tụ kỳ hung đảng, tiếm hiệu Bình Nguyên đại tướng. Thượng khiển Tả gián nghị đại phu  Lưu Cao Nhĩ thụ mệnh xuất chinh, nhi tặc dũ thậm. Công ư thi thời, tẩm bất an tịch, thực bất cam vị, nãi trần tấu viết: "Thần văn: chủ ưu, thần nhục; chủ nhục, thần tử. Man di hoạt Hạ, thần chi tội dã". Thượng hứa công chi thỉnh, toại sung nguyên  súy thống lục sư, thụ việt thệ chúng. Tương binh hành chí  Nam-khoáng tân, công nãi phân binh vi thập đạo, dĩ bị bất ngu.Xuất kiến tặc lữ nhược lâm, nhất cổ nhi tặc thế thổ băng, nghịch đảng tựu cầm, chấn lữ ban sư, đan trì hiến tiệp.Chúa thượng ưu kỳ thưởng tứ sử sách ký kỳ nhung huân, gia tứ tam trùng quang. Chúa thượng phủ tôn thân nhi chương chi, tứ chi thuần  dĩ bao chi; Nghệ-an, Thanh-hóa, Phú-lương tam phủ dai tổng dĩ chi sở phong. Cấm trừ di tục, củng thủ nhi thụ mặc hình; đạo tặc biên dân, táng đảm  nhi quy hoàng hóa.

Việt Giáp tý tuế, công tấu: "Binh bất tập luyện  vô dĩ định loạn; dân bất giáo chiến, hà dĩ uy tứ di?". Thượng nãi mệnh công tịch Tây-viên chi thổ, lập định quốc chi tích, thiết kỳ cổ nhi kinh nhĩ mục, bát trận cửu phạt, ư thị minh hĩ; tam lệnh ngũ thân, ư thị trứ hĩ.

Quyết hậu, thượng nãi dĩ công văn túc dĩ kinh bang quốc, đức túc dĩ động qủy thần, chí nhược nguyên tuyền, đạo đồng kim ngọc, khả dĩ vi sư hĩ. Nãi mệnh. Nãi mệnh  chưởng sư doãn chi trách, luận đạo kinh bang, chư nho gián điệp mưu nghị, dĩ ủy giám chi. Tam trường thi phú khoa cử, tận tại tường hĩ.

Việt canh ngọ tuế, thượng bất dịch, công nãi trai giới mộc dục, trạch thổ lập đàn, thực nghi bỉnh khuê nhi thỉnh đại chi. Hoàng thiên mẫn kỳ trung hiếu, huệ tứ thần phương. Kim đan lập hiệu, toại thưởng ngân nhất thiên mân, bạch tam thập sất. Ư kỳ niên công chi tộc huynh thị trung Đỗ thị hữu nhị tử, trưởng viết Thụy...,thứ viết Thụy Châu. Thượng nãi bị cát lễ dĩ nghinh chi dĩ vi phu nhân. Trưởng thứ vô đố kỵ, chí tại tiến hiền, cung hạnh thái nhi sung cần, phục cán trạc nhi vô dịch.

Việt Giáp tuất tuế, Thụy Châu sinh thái tử viết Thiên  Bảo. Bính tý tuế sinh nhị lang, hựu Mậu dần tuế sinh tử tam lang, ư thị công nhật ích quý, vị quán bách liêu, cử quốc tiển năng cập chi.

Việt Mậu dần tuế, nam lã chi nguyệt, công tẩm bệnh vu Điển-lệnh hương chi tư đệ. Thượng kỵ hoàng thái hậu nhật chiêu quốc lương y nhi tiến dược thạch. Sắc cung cấm  trung sứ nhi quan ẩm thực. Khuynh nội tạng chi noa, phong Ngưu- thủ chi lễ, hàn mặc chi nhân,tỳ hưu chi sĩ, giai tương xuất dĩ thái lao tư thình, nghệ xã tắc tông miếu nhi thỉnh mệnh yên, kinh lạc minh kỳ nan liệu, chỉnh bị tang lễ. Thái thốc chi nguyệt nhị thập nhật Bính tý, công hoăng, phụ chủ nhị thập hữu nhị niên, hưởng thọ tứ thập hữu lục tuế.Thượng kỵ hoàng thái hậu thất nhật ai thống, thán quốc đống hoại, xuyết nội san chi thiện, ỷ tả thành chi triều. Tặng phúng chi vật, tần thái chi lễ, dũ ư thường lệ, tán vu An- lạc hương, Sùng-nhân lý, thị công mẫu tiên tổ chi địa dã. Thái phó Tô công thừa chỉ nhi trợ táng, Chu Trung điển lễ.

Táng giả tàng chi dã, bất khả kiến dã. Tuế kỳ cửu viễn, thế đại thiên biến,  nhi minh thạch trường tồn, sử kiến kỳ từ, tắc tư kỳ nhân, tư mộ bất khả bất lập thạch dã.

Tán viết:

Duy nhạc gián thần,

Sinh thử triết nhân.

Uy nghi lệ lệ,

Văn chất bân bân.

Hữu chí thả dũng,

Phụ thế an dân.

Hưng thi lập lễ,

Lộ nghĩa trạch nhân.

Chủng tể miêu duệ,

Chí chủ sư thần.

Nhập quyết vạn vụ,

Xuất bá ngũ thân.

Văn-đan hội qui,

Bỉ vô dị tục.

Thượng suy tựu lục.

Tái bất kinh trần.

Công cư đệ nhất,

Vị thùy đẳng luân.

Cao hoang hốt nhiễm,

Dược thạch vô thần.

Tiên cung viễn giá,

Đế lệ triêm cân.

Phúng vật ưu hậu,

Táng lễ cụ trần.

Khắc thạch kỷ tích,

Vạn tải thiên xuân.

Dịch nghĩa

VĂN BIA VỀ THÁI ÚY LÝ CÔNG NƯỚC ĐẠI VIỆT

[Thái úy được phong] Suy trung hiệp mưu, bảo tiết thủ chính, tá lý dực đới công thần, thủ thượng thư lệnh, khai phủ, nghi đồng tam ty, nhập nội nội sảnh đô đô tri, kiểm hiệu thái úy, kiêm ngự sử đại phu, dao thụ chư  trấn tiết độ sứ, đồng trung thư minh chính bình chương sự, thượng trụ quốc, thiên tử tứ tính, đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, nguyên súy đại đô thống.

Trình rằng: trong loài chim thì có chim phượng, trong loài cá thì có cá côn, trong loài người thì cũng như vậy. Chung đúc khí thiêng sông núi, năm trăm năm mà nảy sinh ra bậc hiền tài. Ở ngôi tướng vũ tướng văn, làm chủ mười vạn hộ. Uy nghi đáng sợ nhưng đáng theo, hình dáng nghiêm trang mà đứng đắn.Giúp nước xây nền móng thái bình, ở triều giữ vững một lòng trung  trực. Sáng vai cùng Hậu Tắc; danh vọng giống  Y, Chu. Khi sống được mọi người tôn kính, lúc chết được mọi người xót thương, từ xưa tới nay chưa từng có vậy. Ta thấy Thái úy Anh Vũ tên chữ là Quán Thế, [thuộc dòng dõi] Quách công ở Lũng Tây. Tổ bên ngoại của Thái úy là Thái úy Quách công triều  Thái Tông, vốn là người ở huyện Câu Lậu, Tế Giang, sinh ra  Thường Kiệt làm Thái úy triều Nhân Tông, được ban quốc tính là họ  Lý. Ông thân sinh ra Thái úy là Đỗ Tướng, cháu gọi Thái úy Lý Thường Kiệt bằng cậu, nhà ở hương Tây Dự. Lúc ít tuổi đến kinh sư, thấy người con gái một dòng họ lớn, tâm tính hiền hòa, trinh thục, miệng cười tươi như hoa xuân, đức trắng trong như ngọc quí. Ông yêu người con gái đó có cái đẹp của người khuê nữ, nên cưới làm vợ, sinh được hai người con. Người  con trai chính là Thái úy. Thái sư Trương công thấy Thái úy là người đĩnh ngộ,  biết Thái úy sẽ là người rường cột của nước nhà, nên nuôi làm con. Người con gái là Quỳnh Anh gả cho quan Thị trung họ Phạm.

Từ tuổi ấu thơ Thái úy đã có phong tư thanh khiết, vẻ mặt  sáng sủa. Năm Giáp thìn niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ năm (1124) vua Nhân Tông yêu mến phong thái kỳ tú của Thái úy, biết Thái úy là người thông minh lanh lợi, nên tuyển vào trong tử cấm. Thái úy cầm giáo mác mà múa trên nệm gấm, hát khúc Hồi phong mà lả lướt liễu mềm, người các nước đến thăm, không ai là không chú ý ngắm xem.

Năm Đinh mùi đời vua Thần Tông (1127), Thái úy được tuyển vào chầu ở nơi nội cấm, chức vị bao trùm cả sáu bộ Thượng thư. Các việc chính sự ở trong cung cấm và việc xây dựng của thợ thuyền, vua đều ủy thác cho Thái úy cả. Đến như các phép viết chữ, tính toán, bắn cung, cưỡi ngựa, thuốc men, kinh mạch, không nghề nào là Thái úy không tinh thông; đến như việc bói toán, binh pháp, chơi bài, đánh cờ, không việc nào là Thái úy không nghiên cứu. Có thể bảo là "người quân tử không phải một đồ vật" vậy.

Tháng giêng năm Thiên Chương Bảo Tự thứ ba (1135), đang lúc thiên hạ thăng bình, bốn bề yên tĩnh thì nước Văn Đan xâm phạm biên giới phía nam. Vua sai Thái úy là Thái phó Lý Công Bình  thống lĩnh ba mươi vạn quân, theo đường biển đến xứ Âm Dã (?), quận Nhật Nam. Thái úy xa trông thấy trại giặc bèn bảo rằng:

- Quân của thiên tử "dẹp" mà không "đánh", cái thói của bọn người ở trần, ắt bị trời diệt.

Nói xong, ông thúc quân vào, khí thế như gió rung núi lở. Quân giặc sợ hãi kéo nhau chạy trốn, quân của Thái úy đuổi theo chém tướng bắt tù binh. Đuổi đến  Vụ Ôn thì trở về.

Cũng trong năm ấy, Thái úy vâng lệnh vua đi đánh bọn Sơn Liêu, vì chúng cậy núi non hiểm trở không chịu vào chầu. Vua sai Thái úy cùng các tướng đem quân đi đánh, nhưng chỉ riêng Thái úy là người chiến thắng liên tiếp, vì thế người người đều trổ hết sức mạnh để đánh giặc. Nói chung các việc ngoài biên cương, triều đình đều ủy thác cho ông cả.

Tháng  Chín năm Đinh tỵ niên hiệu Thiệu Minh thứ nhất (1137), vua Thần Tông ốm nặng. Nhà vua rửa mặt xong, ngồi tựa vào ghế mà dặn Thái úy rằng :"Chỉ có Thái úy là người  có thể gởi gắm họ Lý được thôi". Sau khi vua Thần Tông thăng hà, Thái úy cùng Hiến Chí  hoàng thái hậu rước vua Anh Tông từ nhà Thượng Thanh về cung lên ngôi. Thái úy chấn chỉnh triều cương, trăm quan khép mình mà nghe lệnh; sửa sang chính trị, muôn dân  nghển cổ để nhìn trông. Hoàng thái hậu thấy Thái úy có nhiều công lao, có lòng trung tiết, bèn thăng chức Thái úy lên chức Kiểm hiệu thái phó. Tháng chín năm Mậu ngọ (1138) lại được phong Phụ quốc Thái úy và ban quốc tính họ Lý. Thái úy được hoàn toàn nắm giữ binh quyền. Lúc bấy giờ vùng Kê Động nơi biên tái, có một yêu đồng tên là Thượng Suy Vi, xưng là con côi của Nhân Tông, tụ tập đồ đảng và tiếm hiệu là Bình Nguyên đại tướng. Vua sai  Tả gián nghị đại phu Lưu Cao Nhĩ đem quân đi đánh, nhưng giặc càng quá quắt. Thế là Thái úy ăn không ngon, ngủ không yên, bàn tâu vua rằng:

- Thần nghe nói : vua lo thì tôi nhục, vua nhục thì tôi chết. Man di khinh nhờn trung hạ là tội của hạ thần.

Vua chuẩn lời thỉnh cầu của Thái úy. Thái úy  lĩnh chức nguyên súy thống lĩnh sáu quân. Sau khi nhận tiết việt và tuyên thệ trước quân sĩ, Thái úy đem quân đến bến Nam Khoáng  và chia quân ra làm mười đạo, để đề phòng sự không hay. Quân giặc tuy đông,  nhưng Thái úy mới đánh một trận mà chúng đã tan vỡ. Khi nghịch đảng đã bị bắt, Thái úy đem quân về triều báo tin thắng trận, nhà vua ban thưởng rất hậu, sử sách ghi chép công lao. Vua ban cho mũ ba tầng, vỗ về  tông thân của Thái úy và làm cho họ hàng được rỡ ràng. Vua lại ban cho Thái úy lụa tốt và ba phủ Nghệ An, Thanh Hóa và Phú Lương làm phong ấp. Thái úy cấm trừ di tục, man dân khoanh tay mà chịu mặc hình; trộm cướp và dân ở biên thùy đều khiếp sợ mà nghe theo sự giáo hóa của nhà vua.

Năm Giáp tí (1144), Thái úy tâu vua rằng:

- Quân sĩ không luyện tập; thì không lấy gì mà dẹp được loạn; dân không dạy chiến đấu, thì không lấy gì để uy phục tứ di.

Vua bèn sai Thái úy mở đất vườn Tây, ghi công dựng nước. Cờ trống chói lòa, bát trận, cửu phạt từ đây sáng sủa; tam lệnh, ngũ thân từ đây rõ ràng.

Sau vua thấy Thái úy, văn đủ sửa sang nhà nước; đức đủ cảm động quỉ thần.Chí như nguồn suối; đạo giống ngọc vàng, có thể đủ tư cách làm bậc thầy vậy. Thế là vua bèn sai Thái úy giữ  trách nhiệm sư doãn để luận đạo kinh bang. Các tấu nghị, can gián của các nho thần đều giao cho Thái úy xem xét, ba trường thi phú khoa cử đều  được rõ ràng.

Năm Canh ngọ (1150), nhà vua bị ốm, Thái úy tắm gội trai giới, chọn đất lập đàn, dựng nghi trượng cầm ngọc khuê, cầu xin [chịu bệnh] thay vua. Hoàng thiên thương Thái úy là người trung hiếu, nên cho một phương thuốc thần. Vua uống viên kim đan lập tức khỏi bệnh. Vua bèn ban cho ông một nghìn quan tiền và ba mươi tấm lụa. Anh họ Thái úy là quan Thị trung họ Đỗ có hai người con gái. Con cả là Thụy..., con thứ là Thụy Châu. Trong năm ấy nhà vua cho đem lễ vật đến đón cả hai nàng về làm phu nhân. Hai chị em không hề đố kỵ, đều dốc một lòng hiếu thảo, cơm canh một mực chuyên cần, giặt giũ không hề trễ nải.

Năm Giáp tuất (1154), Thụy Châu sinh thái tử Thiên Bảo. Năm Bính tý (1156); sinh hoàng tử thứ hai. Năm Mậu dần (1158), sinh hoàng tử thứ ba. Do đó, Thái úy ngày càng cao sang, tước vị đứng đầu trăm quan, cả nước không ai bằng.

Tháng Tám năm Mậu dần (1158), Thái úy bị ốm nằm tại nhà riêng ở hương Điển Lệnh. Vua và hoàng thái hậu hàng ngày sai  ngự y đến bốc thuốc và sai trung sứ đến trông nom cơm nước. Dốc hết của trong kho; đắp đàn lễ Ngưu Thủ. Các quan văn võ đều đem lễ thái lao đến tôn miếu của xã tắc mà kêu khấn cho Thái úy. Nhưng sau khi xem mạch biết rõ ràng bệnh không  chữa được, vua bèn cho sắm sửa lễ tang. Thái úy mất ngày 20 tức ngày Bính tý, tháng Giêng [năm Kỷ mão]. [Tính ra] ông đã giúp vua 22 năm, thọ 46 tuổi.

Vua và hoàng thái hậu thương khóc bảy ngày, than vãn về rường cột của nước nhà nghiêng đổ; bỏ cả cơm ngự thiện, thôi hết các buổi chầu, đưa đồ phúng tế nhiều hơn lệ thường. Thi hài Thái úy an táng ở xóm Sùng Nhân, hương An Lạc là nơi quê hương tổ tiên của mẹ Thái úy. Thái phó Tô công phụng chỉ giúp đỡ việc ma chay và Chu Trung trông coi việc nghi lễ.

Chân cất là giấu kín, không còn trông thấy nữa. Ngày tháng pha phôi, cuộc đời biến đổi, chỉ có bia đá là còn mãi đấy để cho người đời sau trông thấy văn bia thì nhớ đến người. Vậy nên không thể không dựng bia ở mộ này.

Bài tán rằng:

Núi cao, giáng xuống một vị thần,

[Từ đó] từ đó sinh ra bậc triết nhân.

Uy nghi lẫm liệt,

Văn là chất rỡ ràng.

[Là người]  có trí lại có dũng

Giúp rập cho đời, vỗ yên muôn dân.

Gây dựng nền thi thư và lễ nghĩa,

Lấy nghĩa làm đường đi, lấy nhân làm nhà ở.

Là dòng dõi của bậc chủng tể,

Là sứ thần của bậc thánh quân.

Vào triều thì quyết định muôn  việc,

Ra ngoài thì ban bố năm thân

[Đánh] cho nước Văn Đan vỡ chạy,

[Làm cho] ngoài biên cương không còn phong tục quái lạ

Tên Thượng Suy đã bị giết,

Biên tái không còn vương bụi kinh hòang.

Công lao đứng vào bậc nhất,

Ngôi tước không ai sánh kịp.

Bỗng nhiên mắc phải bệnh nặng,

Thuốc thang không còn chút thần hiệu.

Thế là cưỡi [hạc] xa chơi chốn cung tiên,

Nhà vua [xót thương] nước mắt đầm khăn

Đưa đồ phúng rất trọng hậu

Lễ chôn cất rất đầy đủ.

[Lại] khắc bia ghi công,

[Để lưu] mãi muôn đời.

Dịch thơ

Non thiêng giáng thần,

Sinh bậc triết nhân.

Uy nghi lẫm liệt,

Rỡ ràng chất, văn.

Song toàn trí, dũng

Giúp đời yên dân.

Dấy thi dựng lễ,

Đường nghĩa nhà nhân.

Dòng dõi chủng tể,

Vua thánh tôi thần.

Ra truyền ngũ thân.

Văn Đan vỡ chạy,

Tục lạ quét dần.

Thượng Suy bị giết,

Ai lắng bụi trần.

Công lao đệ nhất,

Ngôi trùm nhân thần.

Chợt nhiễm bệnh nặng,

Thuốc thang chẳng vần.

Cung tiên xa lánh,

Của phúng ưu hậu,

Lễ táng chan chan.

Ghi công bia đá,

Còn mãi muôn xuân.

                                               ĐỖ VĂN HỶ