Cover Image
Đóng cuốn sách này Chu Văn Thường
(ChuVanThuong.htm)
đóng thư mục này Tác phẩm
Xem tài liệu An - Hoạch Sơn Báo- Ân Tự Ký

AN - HOẠCH  SƠN BÁO ÂN TỰ BI KÝ

Chiêu chiêu hồ diệu lý trạm tịch, chiếu vật vật nhi vật bất tương xâm; đãng đãng hồ quýnh bỉ chân không, nạp trần trần mạc hỗn tích. Thị diệc bất vị u thâm hoằng viễn tai!

Phật chí hữu kim sắc, nhân chi hữu phật tính nhi bất năng tự giác tự ngộ dã. Nhân chi dục chứng giả, tất tư thiện dĩ chứng yên. Sở khả tham giả mạc đại ư tượng pháp. Tượng pháp chi sở sùng, mạc sùng ư tịnh sát. Cố phỏng Ưu-điền, A- dục chi phương tung, kiết Ma-đằng, Pháp- lan chi di tích.

Kim hữu Thái uý Lý công, tá Hoàng Việt đệ tứ đế, thụ Suy thành, hiệp mưu, bảo tiết, thủ chính, tá lý, dực đới công thần, thủ thượng thư lệnh, khai phủ, khâm đồng tam ty, nhập nội nội thị sảnh, đo đo tri, kiểm hiệu thái uý kiêm ngự sử đại phu, giao thụ chư trấn tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, khai quốc thượng tưởng quân, Việt quốc công, thực ấp nhất vạn hộ, thực thực phong tử thiên hộ. Đồ lâm đại tiết, ngôn thụ xuyết lưu. Tín hồ lục xích chi cô khả thác; bách lý chi mệnh khả ký. Quyết hậu nãi thệ vu sư , Bắc chinh lân quốc; Tây thảo bất đình. Thiện thất túng thất cầm chi thắng địch. Phi hán hữu Hàn, Bành chi công; khởi tề hữu Quản, Yến chi liệt, Duy công phụ quân, quốc gia ân phú đa lịch niên, sở khả thuỳ thần đạo thiên cổ chi hi tích dã.

Chi Nhâm tuất chi tuế, hoàng đế đặc gia Thanh-hoá nhất quân, tứ công phong ấp. Quần mục hướng phong; vạn dân mộ đức. Chính huyện Tây nam hữu sơn, cao nhi thả đại, danh An-hoạch. Sở sản mỹ thạch. Kỳ thạch công gia chi quí vật. Oánh oánh sắc như lam ngọc; thanh thanh chất nghĩ sinh yên. Nhiên hậu tạc nhi vi khí. Kỳ khí dã, tạc vi hưởng khánh, khấu sứ nhi vạn lý lưu âm; dụng tác minh bi, di văn nhi thiên linh cái cố. Thị tắc Thái uý Lý công chỉ sai thị giả Giáp thủ Vũ Thừa Thao nhất danh, lĩnh Cửu-chân hương nhân dã, sưu kỳ sơn, thái kỳ thạch, thập hữu cửu niên. Thực tiễn tiết tháo, dân tựu yên chiến chiến nhi nhược lý khinh băng; khác cần đặc doanh, kỷ thanh yên, căng căng nhi loại thừa hủ sách. Tự tỉnh viết: lượng khí vi nhi tài trọng, bản trí tiểu nhi mưu đại. Tích trần tiêm nhi khởi phất, ngũ nhạc tiệm thành; chú trích thuỷ nhi vô hưu, tứ minh chuyển dật. Huống mong cứu tích chi du nhai, dĩ hà năng chi báo hiệu. Hiền ngu liệt thứ; bần phú hữu nghi. Sở kiến ư tư xứ giả, sam di thuý dã. Thảo kiến nhân từ, hiện vi Báo-ân chi tự dã. Đoan vĩ năng nhân chi tướng; thứ liệt Bồ tát chi dung. Nhan lệ song nam; thể hoàn hội sự. Kinh doanh ư Kỹ mão viêm thiên; khánh thành ư Canh thìn áo cảnh. Kỳ ốc nãi nhất đán tá đan thanh điểm xuyết. Bách niên diên khí tượng phân phương. Tiền y xích đế chi phương, cảnh liệt Cổ-chiến chi huyện, tỉnh phân du cảnh, duyên mậu như vân; hậu liên Tường -phượng chi ngung, bàng tủng Bạch -long chi tụ, hoành trú thanh lưu, thế thành nhất đới. Tả đạt Ngung-di chi biểu, chi cách phân vi chi gian, dao phất Phù-tang, kính tân xuất nhật; hữu thông muội cốc chi đô, bức trấn Nghiêu-nhạc chi nguy, di tiễn tà huy, khích lâm sơ dũ. Môn gian thạch thứu, song ảnh đặc dũng tiêm khâu; kiều ngoại hoa hương, thập lý nhược phiêu nùng xạ.

Đãn ngu nãi học văn muội thiển, thắng sự hà cùng, lạm thỉ vu từ, dĩ di minh viết:

Không môn hư tịch,

Tục luỵ hãn anh.

Cực vi nhi hiển,

Chí tiểu hà khinh.

Cát hung do kỷ,

Họa phúc dị nghinh.

Trần đồ tắc bội,

Thiện lý quy tình.

Tiêm trần khởi nhượng,

Sơn nhạc tiệm thành.

Chích thuỷ bất khí,

Hà hải tương doanh.

Nhược năng cơ yếu,

Danh khí hà khuy.

Hiền ngu liệt thứ,

Bần phú sở nghi.

Minh ân võng cực,

Hà dĩ báo chi.

Cưỡng sam thuý dã,

Thảo kiến nhân từ.

Tiền phân tỉnh mẫu,

Hậu Bạch-long mi.

Hữu thông Nghiêu tụ,

Tả đạt Ngung di.

Song khâu thứu thạch,

Tứ chiếu phương hoa.

Thứ liệt Bồ-tát,

Trung toạ Thích-ca.

Thể hoàn thần hội,

Lẫm liệt bất ma.

Tứ hồi thắng sự,

Nhất cảnh phồn hoa.

Mộ tu tượng pháp,

Vĩnh hảo bang gia.

Danh lưu kim cổ,

Công trứ nhĩ hà.

..................

Tiệt bỉ sơn hề bích long điên, bĩ mĩ thạch hề vưu chí kiên.

Oánh oánh hoạt hề bẩm tự nhiên,

Thanh thanh chất hề nghĩ sinh yên.

Mòng hoàng tích hề thập cửu niên

Giảng pháp trường hề phỏng Ưu-điền,

Sở thứ cơ hề thánh nhật thiên.

Sơn tỉ thọ hề vĩnh hà khiên,

Mộc từ ân hề phúc quả viên.

Chí nhân đạo hề tỉ Nghiêu thiên,

Kỷ vu minh hề bách đại truyền,

Tùng toả ngôn hề quí hậu hiền.

Dịch nghĩa

BÀI KÝ BIA CHÙA BÁO ÂN NÚI AN HOẠCH

Chói ngời thay diệu lý, lặng lẽ soi mọi vật mà mọi vật chẳng lấn át nhau. Lồng lộng thay cái chân không vẳng lặng kia, thu nạp mọi cảnh mà chẳng cảnh nào lẫn với cảnh nào. Đó chẳng phải là sâu xa lớn rộng hay sao!

Phật có sắc vàng (như) người ta có Phật tính, nhưng không (mấy ai) tự giác tự ngộ được. Vì vậy, người muốn chứng quả phải nhờ điều thiện để đến nơi chứng quả. Điều đáng tham cứu không gì lớn hơn tượng pháp, mà sùng thượng tượng pháp không gì bằng chùa chiền. Cho nên, bắt chước dấu vết thơm tho của Ưu Điền, A Dục; phỏng theo tung tích sót lại của Ma Đằng, Pháp Lan. Nay có Thái uý Lý công, giúp vua thứ tư triều Lý, được trao chức: Suy thành, hiệp mưu, bảo tiết thủ chính, tá lý, dực đới công thần, thủ thượng thư lệnh, khai phủ khâm đồng tam ty, nhập nội nội thị sảnh đô đô tri, kiểm hiệu thái uý, kiêm ngự sử đại phu, giao thụ chư trấn tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, khai quốc thượng tướng quân, Việt quốc công, thực ấp một vạn hộ, thực thực phong bốn nghìn hộ. Ông đứng trước tiết lớn, vâng mệnh phù nguy, là người có thể gửi gắm đứa con côi, uỷ thác mệnh lệnh ngoài trăm dặm. Rồi đó ông thề trước ba quân: phía Bắc đánh quân Tống xâm lược, phía Tây đánh bọn không lại chầu, giỏi thắng địch bằng sách lược bảy lần bắt bảy lần đều thả. Đâu phải riêng nhà Hán có công huân Hàng, Bành, nước Tề có sự nghiệp Quản, Án. Riêng ông giúp vua thì nước nhà giàu thịnh nhiều năm. Đó chính là công tích rực rỡ của đạo làm tôi có thể để lại nghìn đời sau vậy.

Đến năm Nhâm tuất (1082), nhà vua đặc biệt ban thêm một quận Thanh Hoá cho ông làm phong ấp, châu mục đều ngưỡng mộ phong thanh, muôn dân đều mến đức chính. Ở phía Tây nam huyện, có một quả núi lớn và cao gọi là núi An Hoạch, sản xuất nhiều đá đẹp, đó là sản vật quí giá của mọi người. Sắc óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh như khói nhạt. Sau này đục đá làm khí cụ, ví như đẽo thành khánh, đánh lên thì tiếng ngân muôn dặm; dùng làm bia, văn chương để lại thì còn mãi nghìn đời. Thế là Thái uý Lý công sai một thị giả là Giáp thủ Vũ Thừa Thao suất lĩnh người hương Cửu-chân, dò núi tìm đá trong mười chín năm. Tiết tháo được thể nghiệm nên dân qui phụ, vậy mà vẫn luôn luôn dè dặt như đi trên băng mỏng; chăm lo đầy đủ khiến mình trong sạch, thế nhưng vẫn băn khoăn như cưỡi ngựa nắm dây cương sờn. Tự xét mình rằng : lượng khí nhỏ mà quyết đoán việc quan trọng; tài trí hèn mà gánh vác việc lớn lao. Chứa hạt bụi nhỏ mà không chùi, sẽ thành năm núi lớn; rót từng giọt nước mà không nghỉ, sẽ tràn bốn biển khơi. Phương chi lại đội ơn vua ban cho vượt bậc, biết lấy gì báo đền. Cho nên, tất cả những người ở xứ này, hiền ngu lần lượt, giàu nghèo đúng phiên đều san đất dẫy cỏ, dựng một ngôi chùa gọi là chùa Báo Ân. Giữa đặt tượng Phật, dưới đặt tượng Bồ Tát, sắc ánh như vàng, đẹp như tranh vẽ. Chùa này khởi công từ mùa hạ năm Kỷ mão (1099), đến mùa hạ năm Canh thìn (1100) thì hoàn thành. Mái tường rực rỡ là nhờ một sớm nét đan thanh điểm xuyết, trăn năm khí tượng, mãi mãi thơm tho. Phía trước hướng về phương Nam, giáp huyện Cổ Chiến, đồng ruộng san sát, xanh tốt như mây. Phía sau liền gò Tường Phượng, bên cạnh vút đồi Bạch Long, dòng sông trong chảy ngang, hình thành một giải. Bên tả thông tới cõi ngung di, trong khoảng giới hạn cách ngăn, xa vén cõi Phù-tang, tiếp đón ánh mặt trời mới mọc. Bên hữu suốt tới đô Muội-cốc, trấn át ngọn núi cao, tiễn ánh tà dương thoáng lướt qua khe cửa. Gò đá cửa ngoài, hai bóng vút cao chóp núi; hoa thơm bên suối, xa xa phảng phất hương nồng. Tôi học tài thiển lậu, thắng sự nào hay, lạm viết lời quê, để lưu hậu thế.

Minh rằng:

Cửa không vắng lặng,

Tục luỵ ít gần gũi.

(Cái tâm thể) cực mờ mà cực rõ,

Rất nhỏ nhưng nào có nhẹ.

Lành dữ đều bởi mình,

Hoạ phúc đều dễ đón.

(Phải nên) xa lánh con đường bụi bặm,

Hướng về làng xóm thiện duyên.

Há dám khước từ từng hạt bụi nhỏ,

Tích mãi sẽ thành non cao.

Đâu nở bỏ rơi từng giọt nước,

(Chứa dần) sẽ tràn đầy sông bể.

Nếu như hiểu rõ điều cơ yếu,

Thì danh và khí có sút kém đâu.

Hiền và ngu đều lần lượt (góp phần),

Giàu hay nghèo đều thích nghi cả.

Ơn sáng không cùng,

Biết lấy gì báo đáp.

Dẫy cỏ san đất,

Bắt đầu dựng một ngôi chùa.

Phía trước hướng về đồng ruộng dọc ngang,

Phía sau quay về đồi Bạch Long,

Bên hữu thông với non Nghiêu,

Bên tả suốt tới cõi ngung di.

Núi đá hai gò,

Hoa thơm bốn phía rực rỡ.

Phía dưới đặt tượng Bồ Tát,

Chính giữa đặt tượng Thích Ca.

Tượng Phật đã hoàn thành, tranh Phật đã vẽ xong,

Tinh thần lẫm liệt không bao giờ phai mờ.

Xung quanh toàn cảnh đẹp,

Khắp một cõi phồn hoa.

Tu sửa tượng pháp,

Mãi mãi giữ gìn nước nhà.

Tiếng tăm để mãi  xưa nay,

Công tích rạng rỡ xa gần.

.....................

Ngọn núi chót vót kia là ngọn núi Bích-long,

(Có nhiều) đá quý đã đẹp lại bền.

Sắc đá lóng lánh, đó là đặc tính tự nhiên,

Chất đá xanh xanh như khói mới bốc lên.

................

Đội ơn vua đã mười chín năm.

Cầu đảo ở pháp đường, bắt chước Ưu Điền,

Ngày tháng của thánh nhân ngõ hầu đổi dời.

(Mong cho) tuổi thọ như núi non, không bao giờ sút kém,

Tắm gội từ ơn, phúc quả vẹn tròn.

...............

Đạo chí nhân sánh với trời Nghiêu.

Ghi ở bài mình này trăm đời lưu truyền,

Lời nói tủn mủn, sợ thẹn với các bậc hiền đời sau.

Dịch thơ

Cửa không vắng lặng,

Tục lụy nào vương.

Nhỏ, nhưng rất nặng,

Kín, vẫn rõ ràng.

Mình gây lành dữ,

Họa phúc dễ mang.

Đường trần quay gót, 

Xóm thiện bước sang.

Bụi nhỏ tích lại,

Thành ngọn núi vàng.

Giọt nước chứa lại,

Sóng bể mênh mang.

Nếu hay cơ yếu,

Danh, khí trọn đường.

Hiền, ngu lần lượt,

Không kể giàu sang.

Lấy gì báo đáp,

Từ ơn khôn lường.

Dẫy cỏ san đất,

Dựng  ngôi Phật đường.

Trước, ruộng ngang dọc,

Sau, Bạch Long cương.

Hữu thông núi thẳm,

Tả tới Phù tang.

Hai gò núi đá,

Hoa thắm ngát hương.

Dưới tượng Bồ- tát,

Giữa tượng Phật vàng.

Tượng sơn tranh vẽ,

Lẫm liệt khác thường.

Bốn phen việc tốt,

Một cõi huy hoàng.

Tu sửa tượng pháp,

Nhà nước vững vàng.

Tiếng thơm muôn thuở,

Công chói muôn phương.

Ngọn núi chót vót là ngọn Bích-long,

Đá kia đã đẹp chừ lại thêm bền.

Sắc long lanh chừ tính bẩm tự nhiên,

Chất xanh xanh chừ như khói mới lên.

................

Đội ơn vua chừ đã mười chín niên.

Cầu pháp đường chừ bắt chước Ưu-điền,

Ngày thánh ngõ hầu chừ đương độ biến thiên.

Mong thọ như non chừ mãi mãi bình yên,

Tắm từ ân chừ phúc quả vẹn tuyền.

..............

Đạo chi nhân chừ sánh với Nghiêu thiên.

Ghi bài minh chừ muôn thuở lưu truyền,

Lời quê vụng về chừ thẹn với hậu hiền.

ĐỖ VĂN HỶ