Cover Image
Đóng cuốn sách này Khuyết Danh
(KhuyetDanh7.htm)
đóng thư mục này Tác phẩm
Xem tài liệu Càn-Ni Sơn Hương-Nghiêm Tự Bi Minh

CÀN-NI SƠN HƯƠNG - NGHIÊM TỰ BI MINH

    Phù thuỷ phán huyền hoàng; triệu phân thanh trọc.Tam tài ký biện; vạn tượng dĩ trần. Quý tiện thù đoan; trí ngu bất đẳng. Ái lưu thành hải; tích trần vi nhạc. Khi bản tuân mạt; tuần hoàn bất dĩ, thất kỳ tự nhiên chi tính. Cố ngã Đại Hùng thị giáng sinh Già-vệ, mẫn vật quyền hình. Khai phương tiện môn; tế chư quần phẩm. Trừng ác khuyến thiện; thoát kỳ mê cốt hỹ. Kị hậu Kim-sa hối tích; tượng giáo phi truyền. Xứ xứ quy y; phương phương khâm mộ. Hoặc sơn xuyên tu lạc; hoặc thành ấp hùng đô. Tiết tị nhân từ; cơ liên kiệt sát. Khởi bất sùng phong ngưỡng đạo giả dư?

    Càn-ni sơn Hương-nghiêm tự tức Đạo Dung thiền sư huý ... trùng tu tập dã. Sư tiên tổ Việt Ái-châu Cửu-chân quận lệnh tộc, Trấn quốc bộc xạ Lê công, gia phú hào thịnh. Tích cốc nhất bách dư thập lẫm; môn dưỡng tam thiên khách. Đốc  hoài thiện bản, khôi sùng tượng giáo, thác tư gia cảnh, danh truyền Hương-nghiêm, Trinh-nghiêm, Minh-nghiêm tam thiền viện, các lặc minh kỷ chi. Thời châu quận dân tất bị tuế cơ, công chẩn thải kỳ cốc nhi tế chi. Đãi Đinh Tiên Hoàng văn công hữu đạo, phong vi Ái-châu Cửu- chân quận Đô quốc dịch sứ, Kim tử quang lộc đại phu, sắc tứ bán kỳ, Đông tự Phấn-dịch, Nam tự Vũ-long, Tây tự Ma-la sơn đính, Bắc tự Kim-cốc nham cước, đại đại tử tôn sung vi quản giới.

    Đáo Lê Đại Hành hoàng đế, tuần du Ngũ-huyện giang, kiến kỳ tự dĩ đồi nhiên, tục bổ cấu chi. Đáo Lý gia Thái Tông hoàng đế, Nam hạnh Ái-châu, lãm tư Phạn Vũ, miên lịch đại tự, đống lương huy hủy nhi phục sùng chi. Kiêm sắc tứ công chi đích điệt Đạo Quang trưởng lão sung vi thiền chủ, cập tứ đại hình ngũ danh nhi chủ trì yên. Trưởng lão tức sư chi nghiêm phụ dã. Thời Thái Tông trạch bỉ quận dân, sư tòng huynh Thái phó Lưu công trác nhiên hữu dị, chiếu nhập nội đình. Ký Thánh Tông lập cực, công thị duy ác chi trung, luỹ thừa sủng quyến.

    Đãi đương kim Minh hiếu hoàng đế tiễn tộ ngự bảo, niệm công bật lượng tam đại hữu công, phong vi Nhập nội nội thị sảnh đô đô trí, kiểm hiệu thái phó kiêm cung dịch sứ đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, thượng trụ quốc khai quốc công, thực ấp lục thiên thất bách hộ, thực thực phong tam thiên hộ tịnh sắc hách kỳ tông tổ.

    Ư Bính thìn niên ngẫu xả gia hương tầm cầu thiện hữu; phù bôi Nam hải quải tích Vương thành. Cảm ngộ Phạn tăng, hiệu Cao Thiền giả, sư sự chi nhi tham vấn pháp yếu. Phạn sư viết: "Pháp bản vô pháp, tương hà phó yên!" Sư nãi văn chi;  khoát nhiên khai ngộ. Sư phục lịch Lô-giang thượng tố, trắc Thứu-đài sơn, lãm tư thắng cảnh, thực túc khế tâm. Mệnh công quỹ nhật, điệp thạch Phạn cơ, nhi ngật sùng Phạn vũ. Thự viết: Khai-giác tự. Cảm Thuỵ Thánh công chúa cập Thái phó Lưu công cấp kỳ khí dụng.

    Ư Đinh mão niên, sư ngẫu hoàn cựu ấp, kiến Hương-nghiêm tự dĩ đồi hoại, nãi vị huynh Lưu công viết: "Nhân hiền bất vong tiên tổ chi tung, nguyện công kỳ phục sùng chi". Công văn kỳ du ngôn, khoát nhiên nhi hỉ. Công nãi vị quốc tướng Thái uý Lý công viết: "Hương-nghiêm tự giả, thị dư tiên tổ chi sùng tu. Kim dĩ đồi lạc, công kỳ dữ dư nhi cộng sùng chi". Thời Thái uý Lý công sưu tài vận cân, nhi phục sùng tu.

    Tân mùi trung, Thiều, Tô nhị Phò ký lang tấu khất tiên tổ Bộc xạ điền địa khoảnh lý. Đế lý thù Bối-lý giáp hệ Lê công tông tộc. Ư kỳ niên thu, thái úy Lý công đáo nhậm khoảnh điền lập thạch bi, phân điền dữ lưỡng giáp. .Tùy thượng đáo A-lôi đàm, bán đàm dữ Bối-lý giáp, bán đàm dữ Viên-đàm giáp.Thái uý trùng báo lưỡng ngạn lưỡng giáp bất hoạch thủ mão lô nhất diệp.Tức sức giao hệ Lê công đệ .

    Đáo Kỷ mão niên, phụng chiếu thị nhập nội đạo tràng. Nhâm dần trung, tái yết cựu cảnh. Nhân vật tuy cải, sơn thủy y nhiên, đài chỉ do tồn, tức mệnh lương công đạc thổn, trùng tu kỳ tự. Bản đà thạch thượng, kim tướng nghiễm nhiên; tuy đổ ba trung, toàn thân Đa bảo. Thiềm huy hân xí; ngoã điệp bài lân. Lan thuẫn thanh hư; môn quynh xưởng khoát. Tả dịch sùng nguy lâu nhất tỏa, nội quản sương chung. Hữu chi dịch lập thạch bi kỷ kỳ công huân thứ thiên tải chi bất dẫn.Viên dung hoàn nhiễu,quýnh cách hiêu trần; hoa mộc la tăng, hương yên phúc úc. Phục trần khách tịch, nãi mệnh chân lưu: phúng vô thượng linh thuyên; chứng vô sinh pháp nhẫn Dĩ tư giới chỉ; thượng chúc thánh cương. Đẳng nhật nguyệt hằng minh; tịnh sơn hà vĩnh cố. Tiền tinh tảo giáng, tất cảm nguyệt tâm; dịch diệp truyền phương, phi thừa đại đảo.Nhiên nguyện đại đàn việt chủ: tín thành bất đạn, nguyện lực vô vọng; các ngô bản tâm, đồng đăng bỉ ngạn. Thứ tiến vị tiên tổ khảo tỉ, quá vãng chư thân: hàm khế bản tâm; câu đăng Phật địa. Sư nãi vị chư đồ viết: "Sự thành tất ký dĩ di hậu đại khả quan". Sự nãi cầu văn ư dư, cố từ bất miễn, cận kỷ kỳ tuế nguyệt nhi dĩ. Trực vi minh viết:

Tam tài ký biện,

Quý tiện phân yên.

Khí bản tuân mạt,

Thất tinh tự nhiên.

Chí hĩ Hoàng giác,

Thị  tướng quyền hình.

Thuyết pháp lợi sinh,

Chửng tế quần linh.

Hàm chứng diệu duyên,

Tận sử khang ninh.

Kim -sa hối tích,

Tượng giáo phi truyền.

Thành ấp tụ lạc,

Khê hác sơn xuyên.

Tương vọng liệt sát,

Dĩ li thanh uyên.

Vĩ tai Bộc xạ,

Khắc sùng quyết chỉ.

Hương-nghiêm khẳng cấu,

Không tồn cơ chỉ.

Kỷ đại thánh du,

Kế lập bất dĩ.

Tư kỳ tiên tổ,

Cảm chí Đạo Dung.

Trùng cấu kỳ tự,

Tái sức kim dung.

Cu lập thạch bi,

Kháng huyền sương chung.

Lục thời ẩu kích,

Cửu loại khoát mông.

Vận cân tiệm tẩm,

Khánh tịch cao sùng.

Thuần hi tổng tuỵ,

Thượng chúc duệ thông.

Tảo giáng tiền tinh,

Dịch diệp hưng long.

Dư cập đồng duyên,

Thứ tiến tông phong.

Chứng ngộ vô sinh,

Vĩnh thoát trần tung.

Lặc thạch kỷ công,

Thời vận vô cùng.

Thiên Phù Duệ Vũ ngũ niên Giáp thìn, thập nhị nguyệt, sơ tứ nhật, đông, trai khánh ngật lập.

Dịch nghĩa

VĂN BIA CHÙA HƯƠNG NGHIÊM NÚI CÀN NI

    Ôi! Mới phân phán huyền hoàng; bắt đầu chia trong đục. Tam tài đã phân biệt; muôn tượng đều phô bày. Sang hèn khác đầu mối; trí ngu nào giống nhau. Ái dục chảy tuôn nên bể cả; bụi trần chất chứa thành non cao. Bỏ gốc đua theo ngọn; tuần hoàn mãi không ngừng. [Đến nỗi] để mất bản tính tự nhiên của mình. Cho nên, họ Đại Hùng của ta phải giáng sinh xuống thành Già Vệ, thương vật nên tạm phải hóa thân. Mở cửa phương tiện; tế độ chúng sinh. Răn việc ác, khuyên điều lành, thức tỉnh sự mê lầm cho họ. Sau khi Phật náu mình ở Kim Sa thì tượng giáo rộng rãi lưu truyền. Nơi nơi đều hâm mộ; chốn chốn thảy tin theo. Hoặc núi sông, thôn xóm; hoặc thành ấp, hùng đô. Chùa chiền như răng lược; tháp báu tựa bàn cờ. Đó chẳng phải là sùng phong ngưỡng đạo hay sao?

    Chùa Hương Nghiêm núi Can Ni là ngôi chùa do Thiền sư Đạo Dung tu sửa. Tổ tiên của thiền sư là Trấn quốc bộc xạ Lê công thuộc một dòng họ lớn ở quận Cửu Chân, châu Ái, nước Việt. Gia thế giàu thịnh, nhà thường chứa hơn trăm lẫm thóc; môn khách thường có tới ba nghìn. Ông dốc lòng làm việc thiện, tôn sùng tượng giáo, mở mang phong cảnh đẹp đẽ này. [Do đó]  tiếng tăm lừng lẫy, ba chùa Hương Nghiêm, Trinh Nghiêm và Minh Nghiêm mỗi nơi đều có khắc bia ghi việc.

    Lúc bấy giờ trong châu quận bị mất mùa đói kém, ông xuất thóc của nhà cấp phát cho dân. Về sau Đinh Tiên Hoàng biết ông là người có đạo nghĩa bèn phong tước Kim tử quang lộc đại phu, cho làm Đô quốc dịch sử quận Cửu Chân, châu Ái, lại sắc ban cho mở cõi, Đông từ Phân Dịch, Nam từ Vũ Long, Tây từ đỉnh núi Ma La, Bắc từ chân lên Kim Cốc, đời đời con cháu được quyền trông coi.

    Đến khi vua Lê Đại Hành đi tuần du đến giang Ngũ Huyện, thấy chùa chiền đã đổ nát, liền cho xây đắp tu bổ lại. Rồi tiếp đến vua Thánh Tông nhà Lý đi tuần phương Nam, tới châu Ái, ghé thăm cảnh chùa, thấy cột kèo đã gãy hỏng, cũng bỏ sức trùng tu. Lại phong cho cháu đích của ông là trưởng lão đạo Quang làm Thiền chủ, và cho năm tên đại hình để hương khói giữ gìn. Trưởng lão tức là thân phụ của thiền sư vậy. Sau đó vua Thái Tông tuyển chọn người trong quận, anh họ của thiền sư là Thái phó Lưu công, [tướng mạo] khôi ngô khác thường nên vua xuống chiếu cho vào nội đình.

    Khi vua Thánh Tông trị vì, Lưu công hầu trong màn trướng, luôn luôn được vua tin dùng. Đến nay đương Kim Minh hiếu hoàng đế lên ngôi nghĩ ông có công giúp rập ba triều, liền phong cho làm Nhập nội nội thị sảnh đô đô tri kiểm hiệu thái phó kiêm cung dịch sứ đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, thượng trụ quốc khai quốc công, thực ấp sáu nghìn bảy trăm hộ, thực thực phong ba nghìn hộ; lại sắc phong chức tước rỡ ràng cho tông to.

    Năm Bính  thìn (1076), sư bỗng nhiên bỏ quê nhà ra đi tìm bạn. Lênh đênh trên bể Nam rồi trụ trì ở kinh thành. Gặp một Phạn tăng hiệu là Cao Thiền sư cảm phục bèn thờ làm thầy, và hỏi những điều cốt yếu của tâm pháp. Phạn tăng trả lời:

Pháp vốn không có pháp,

Biết lấy gì bảo ngươi.

    Sư nghe mấy lời, bỗng nhiên giác ngộ. Rồi sư lại ngược dòng sông Lô, đến thượng nguồn, trèo lên núi Thứu Đài ngắm xem cảnh đẹp. Dừng chân [trên núi] thấy ý hợp tâm đầu, liền sai thợ xem hướng xếp đá làm nền, dựng một ngôi chùa nguy nga, đặt tên là chùa Khai Giác, được công chúa Thụy Thánh và Thái phó Lưu Công tư cấp mọi vật dụng.

    Năm Đinh mão (1087), sự ngẫu nhiên trở về ấp cũ thấy chùa Hương Nghiêm đã đổ nát, bèn nói với anh là Lưu Công rằng:

- Người hiền thì không quên dấu vết của tổ tông, mong ông tu tạo lại ngôi chùa đó.

    Lưu Công nghe mấy lời khuyên, bất giác lấy làm vui vẻ. Ông liền bảo với Quốc tướng thái úy Lý công rằng:

- Chùa Hương Nghiêm vốn do tiên tổ tôi sửa sang cho cao rộng. Nay đã đổ nát, xin ông cùng tôi tu bổ lại.

    Thế là sau đó Thái úy Lý công cho sắm sửa gỗ lạt, khởi công sửa chữa.

    Năm Tân mùi (1091) có hai chàng Phò ký lang họ Thiều và họ Tô tâu xin lại khoảng ruộng đất của tiên tổ là quan Bộc xạ. Vua xét lời tâu bèn trả lại giáp Bối Lý cho thuộc về họ hàng Lê công. Do đó mùa thu năm ấy, Thái úy Lý công đến tận nơi, cho chuộc ruộng đất, lập bia đá và chia ruộng cho hai giáp. Rồi ông lại tới đầm A Lôi, chia một nửa đầm cho giáp Bối Lý, một nửa đầm cho giáp Viên Đàm.Thái uý còn truyền bảo lần nữa cho hai giáp biết, không được lấy một lá lau, một ngọn cỏ ở hai bên bờ đầm. Ngay lúc đó lại ra lệnh giao về cho dòng dõi nhà họ Lê.

    Đến năm Kỷ mão (1099), sư phụng chiếu [đến kinh] phụng sự trong đạo tràng. Giữa năm Nhâm dần (1122), sư lại về thăm cảnh cũ. Nhân vật tuy đã đổi dời, nhưng non nước vẫn như xưa, nền đài hãy còn đó. Sư lập tức sai thợ giỏi đo đạc, trùng tu lại chùa. Trên đá chênh vênh, tượng phật uy nghiêm; giữa sóng thấp cao, toàn thân Đa bảo. Mái hiên cong cong như cánh trĩ; ngói lợp lớp lớp như vảy rồng. Lan can thoáng mát ; cửa ngõ thênh  thang. Mé trái có một tòa lầu nguy nga, trong treo chuông lớn. Bên phải dựng tấm bia đá ghi chép công lao, ngõ hầu mong nghìn năm không mai một. Tường vách bao quanh, cách xa trần giới; cỏ hoa tươi tốt, ngào ngạt khói hương.

    Khánh thành bày tiệc, mời bậc cao tăng: đọc lời kinh vô thượng; chứng phép báu vô sinh. Đem quả phúc này dâng chúc giường mối của thánh thượng: sánh với mặt trời mặt trăng luôn luôn vằng vặc; cùng với núi sông mãi mãi vững bền. Sớm sinh thái tử, được chứng lòng thành; dòng dõi truyền thơm, kế thừa ngôi báu. Lại mong bậc chủ đại đàn việt: hết lòng thành tín; nguyện lực đừng quên. Mọi người đều giác ngộ bản tâm; cùng nhau bước sang bờ cực lạc. Sau nữa tiến dâng tổ tiên, cha mẹ và người thân đã mất: đều hoà hợp được bản tâm; cùng đặt chân lên đất Phật.

    Sư bèn bảo môn đồ rằng:

    - Việc xong tất phải ghi lại để đời sau xem biết.

    Sư xin tôi viết cho bài văn. Tôi cố chối từ không được, đành chỉ ghi năm tháng mấy dòng. Và làm một bài minh rằng:

Tam tài đã phân biệt,

Sang hèn đã chia đôi.

[Người đời] bỏ gốc theo ngọn,

Mất bản tính tự nhiên.

Lớn lao thay bậc Hoàng giác,

Chỉ rõ sắc tướng, lại tạm hoá thân [xuống trần].

Thuyết pháp làm lợi cho muôn vật,

Cứu vớt mọi sinh linh.

Được chứng duyên kỳ diệu,

Hết thảy đều khỏe mạnh bình an.

[Khi người] ẩn tích ở Kim-sa,

Thì tượng giáo lưu truyền rộng rãi.

Dù nơi đô thành xóm ấp,

Hay chốn núi sông, khe ngòi.

Chùa chiền đều san sát đối nhau.

Ngói xanh mái tiếp liền lớp lớp.

Lớn lao thay ngài Bộc xạ,

Thực hiện được ý định của mình.

Chùa Hương Nghiêm [đã] xây dựng,

Nay vẫn còn nền móng.

Mấy đời vua tuần du qua đây,

Đều nối tiếp sửa sang không bỏ.

Nhớ đến tiên tổ,

Cảm chí ngài Đạo Dung.

Tu sửa ngôi chùa này,

Tượng Phật được tô lại.

Dựng bia đá đầy đủ,

Và treo cao chuông lớn.

Sáu thời thỉnh chuông,

Chín loài đội ơn.

Công việc dần xong,

Mở tiệc khánh thành.

Tích tụ nhiều phúc lớn,

Dâng chúc thánh thượng cao minh:

Sớm sinh thái tử,

Đời đời thịnh vượng.

Lại cùng chúc cho những người cùng có duyên [với cửa Phật],

 Sau cùng dâng tiên tổ:

Chứng ngộ phép vô sinh,

Mãi mãi thoát cõi phàm trần.

Khắc đá ghi công,

Muôn đời không cùng.

Dịch thơ

Tam tài đã phân biệt,
Sang hèn đều chia đôi.
Bỏ gốc đua theo ngọn,
Sớm để mất tính trời.

Lớn lao thay! Hoàng giác,
Tạm hiện thân xuống đời.
Chỉ rõ điều "sắc tướng,"
Thuyết pháp cứu muôn loài.

Được chứng duyên kỳ diệu,
Hết thảy đều khỏe vui.
Chốn Kim sa ẩn náu,
Tượng giáo truyền khắp nơi.

Từ thị thành thôn ấp,
Đến sông núi khe ngòi.
Chùa nối nhau san sát,
Mái ngói xanh tiếp trời.

Lớn thay! Ngài Bộc xạ,
Vững một chí không rời;
Chùa Hương Nghiêm dựng đặt,
Nền cũ vẫn chưa phai.
Mấy đời vua du ngoạn,
Sửa sang mãi không thôi.

Nhớ đến dấu tiên tổ,
Đạo Dung chí quyết noi.
Chùa xưa tu bổ lại,
Tượng Phật mới tô bồi.
Dựng bia ghi công quả,
Chuông đồng treo ngang trời.

Sáu thời chuông dắng dỏi,
Ơn sâu trùm chín loài.
Công việc vừa tạm dứt,
Khánh thành đặt tiệc mời.

Tích tụ nhiều phúc đức,
Cầu chúc đấng con trời,
Sớm sinh ngôi thái tử,
Cơ thịnh vượng lâu dài.

Mong người cùng duyên nghiệp,
Nguyện tiên tổ chứng lời.
Phép vô sinh được ngộ,
Vĩnh viễn thoát trần ai.

Khắc đá để ghi công,
Bền vững mãi muôn đời.

Ngày 4 tháng Mười hai, mùa đông năm Giáp thìn, niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ năm, sau tiệc chay dựng bia.

BĂNG THANH-HUỆ CHI